K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 giờ trước (21:28)

Bạn đã trích dẫn một đoạn thơ rất đẹp và giàu hình ảnh! Hãy cùng phân tích các biện pháp tu từ được sử dụng nhé.

a. Các biện pháp tu từ được sử dụng

Trong đoạn thơ này, có hai biện pháp tu từ nổi bật:

  • Nhân hóa: Đây là biện pháp được sử dụng nhiều nhất và rõ ràng nhất.
    • "bờ tre ríu rít tiếng chim kêu": Tiếng chim líu lo như tiếng người trò chuyện, ồn ào, vui vẻ.
    • "mặt nước chập chờn con cá nhảy": Miêu tả sự sống động của mặt nước, cá nhảy lên xuống liên tục như đang đùa giỡn.
    • "bạn bè tôi tụm năm tụm bảy": Bạn bè tụ họp, sum vầy.
    • "bầy chim non bơi lội trên sông": Chim non (thường là bay) lại "bơi lội", gợi hình ảnh sinh động, gần gũi như những đứa trẻ.
    • "sông mở nước ôm tôi vào dạ": Dòng sông được hình dung như một người mẹ hiền từ, rộng lượng dang vòng tay ôm ấp.
  • Điệp ngữ: "khi" được lặp lại ở đầu hai câu thơ đầu ("Khi bờ tre...", "Khi mặt nước...").

b. Tác dụng của các biện pháp tu từ đó

Các biện pháp tu từ này góp phần tạo nên một bức tranh thiên nhiên và con người đầy sức sống, cảm xúc:

  • Tác dụng của nhân hóa:
    • Làm cho cảnh vật (bờ tre, mặt nước, sông) trở nên gần gũi, sống động và có hồn hơn, như có sự giao cảm với con người. Sông không chỉ là dòng chảy mà là một thực thể biết "ôm", thể hiện tình cảm.
    • Giúp người đọc cảm nhận được sự gắn bó, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Cảnh vật dường như cũng đang tận hưởng niềm vui, sự thanh bình cùng với con người.
    • Tăng tính biểu cảm, gợi hình, giúp đoạn thơ trở nên hấp dẫn và giàu sức gợi hơn.
  • Tác dụng của điệp ngữ "khi":
    • Nhấn mạnh thời điểm diễn ra những khoảnh khắc đẹp đẽ, đáng nhớ.
    • Tạo nhịp điệu cho câu thơ, giúp đoạn thơ trôi chảy, liền mạch hơn.
    • Gợi cảm giác về sự liên tiếp, nối tiếp của những hình ảnh, âm thanh bình dị nhưng tràn đầy sức sống của một buổi chiều trên sông.

Nhờ những biện pháp tu từ này, đoạn thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn truyền tải được cảm xúc yêu mến, gắn bó của nhân vật trữ tình với thiên nhiên, với tuổi thơ và những người bạn.

20 giờ trước (9:12)

câu 2 :Trong quá trình phát triển và khẳng định bản thân, việc lựa chọn nghề nghiệp được xem là một trong những quyết định quan trọng nhất của đời người. Có ý kiến cho rằng: “Chọn nghề không chỉ là quyền lợi của bản thân, mà còn là trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội”. Quan điểm ấy được cho là sâu sắc bởi những gì liên quan đến nghề nghiệp không chỉ tác động đến bản thân mà còn ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển xã hội.Trước hết, việc chọn nghề là quyền lợi cá nhân bởi ai cũng có quyền tự do lựa chọn con đường mà mình yêu thích và phù hợp với năng lực. Ngành nghề là phương tiện để mỗi cá nhân khẳng định bản thân, khẳng định giá trị cá nhân cũng như tìm kiếm cho mình niềm hạnh phúc. Nếu như lựa chọn đúng nghề, con người gia tăng khả năng bản thân, có động lực cố gắng và cảm thấy cuộc sống thú vị hơn. Đó là một trong những biểu hiện của quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc trong bất cứ xã hội văn minh nào.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng việc chọn nghề cũng gắn liền với trách nhiệm xã hội. Bởi lẽ, mỗi cá nhân là một mắt xích trong guồng quay vận hành của xã hội. Một nghề nghiệp không chỉ phục vụ cho bản thân người làm nghề, mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh. Chẳng hạn, một bác sĩ không chỉ làm công việc để có thu nhập, mà còn gánh trên vai sinh mạng của bệnh nhân; một giáo viên không chỉ giảng dạy để nhận lương, mà còn góp phần tạo ra thế hệ tương lai của đất nước. Từ đó cho thấy, nếu mỗi người chỉ chọn nghề vì lợi ích cá nhân mà không cân nhắc đến nhu cầu của xã hội, thì sự phát triển chung sẽ bị mất cân bằng. Điều này dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, những ngành quan trọng như nông nghiệp, y tế cộng đồng, giáo dục vùng sâu vùng xa… có thể bị bỏ ngỏ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của quốc gia.Chọn nghề cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần trách nhiệm. Những thanh niên tình nguyện về vùng khó khăn để dạy học, làm y tế hay phát triển kinh tế địa phương là minh chứng rõ ràng cho sự kết hợp giữa ước mơ cá nhân và trách nhiệm cộng đồng. Họ có thể từ bỏ những cơ hội tốt đẹp nơi thành phố để mang tri thức, y tế, và kỹ năng đến những nơi thiếu thốn – đó chính là những con người “chọn nghề” với trái tim hướng về xã hội.

Vì thế, trong bối cảnh hiện nay – khi nền kinh tế đang chuyển mình mạnh mẽ và xã hội cần nhiều ngành nghề khác nhau để phát triển – việc định hướng nghề nghiệp cho giới trẻ cần kết hợp giữa đam mê cá nhân và nhu cầu xã hội. Nhà trường, gia đình và bản thân người trẻ cần nhìn nhận chọn nghề không chỉ như một quyết định riêng tư, mà còn như một hành động có trách nhiệm với cộng đồng. Việc này không chỉ giúp cá nhân phát triển bền vững, mà còn góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, tiến bộ.

Tóm lại, chọn nghề là quyền lợi chính đáng của mỗi người, nhưng nếu chỉ dừng lại ở lợi ích cá nhân thì sẽ thiếu đi cái nhìn toàn diện. Khi mỗi cá nhân ý thức rằng nghề nghiệp của mình còn là một sự đóng góp cho xã hội, thì lúc đó, họ không chỉ là người lao động đơn thuần mà còn là người kiến tạo tương lai. Và chính điều đó làm nên giá trị thật sự của nghề nghiệp trong thế kỷ mới.


(4,0 điểm) Đọc văn bản sau:BÁN MỘT CÀNH MAI ĂN TẾT(Hoàng Công Danh) Lược phần đầu: Khi anh rướn người nhét cặp vé số chưa bán được vào túi quần thì nhìn thấy một bà cụ già. Bà ngồi trên cái ghế nhựa nhỏ, tay giữ một cành mai gầy không một chồi lá lộc. Hôm qua đến giờ bà đã hạ giá cả chục lần. Từ bốn triệu khi khách đầu tiên hỏi, rồi giảm mỗi lần hai, ba trăm... Một...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản sau:

BÁN MỘT CÀNH MAI ĂN TẾT

(Hoàng Công Danh)

Lược phần đầu: Khi anh rướn người nhét cặp vé số chưa bán được vào túi quần thì nhìn thấy một bà cụ già. Bà ngồi trên cái ghế nhựa nhỏ, tay giữ một cành mai gầy không một chồi lá lộc. Hôm qua đến giờ bà đã hạ giá cả chục lần. Từ bốn triệu khi khách đầu tiên hỏi, rồi giảm mỗi lần hai, ba trăm... Một ông khách bước tới: – Cái này mà nở kịp tết tui mua, một bông thôi cũng được. Ông thắp lên cho bà niềm hy vọng, bà lại nâng giá: “Ba triệu, không thêm không bớt.”. Anh bám theo ông già, và hỏi: – Sao ông lại muốn mua, mà phải chờ nó nở. – Ấy là giống mai quý ở trong cung đình Huế ngày xưa, gọi là “mai tiến vua”, “mai ngự”. Ông già dặn đừng nói cho bà cụ biết, lỡ bà tưởng đang giữ của quý lại thêm tội nghiệp.

Ba mươi tết, trời hửng nắng, ấm hẳn. Mấy lô mai như ngóng tin ấm từ tối qua để sáng ra đã thấy vàng rực. Tới trưa, chùm nụ cành mai của bà đã hé. Trời không phụ công bà già hai hôm tưới ấm xông nhang. Dù trên búp chỉ mới hé vàng như cái dấu nẻ chân chim, nhưng ngồi bên này quán cóc anh cũng nhìn thấy được. Phải vì cái màu vàng của mai nó vừa mắt quá, hay vì màu đấy nổi bật giữa cành gầy khô đét và một người đàn bà cũng gầy đét khô khan.

Anh nhào qua đường, đến chỗ bà già ngắm thật đã cái màu vàng hoa vừa nhú. Không phải một hoa, cả một chùm năm bông luôn. Chỉ cần thế thôi, chỉ cần trời kiểu này thôi tới chiều nó sẽ bung hoa cho mà xem.

Bà đưa tay đẩy anh ra.

– Cẩn thận nó rụng chú ơi.

Ánh mắt bà liếc lóm, nửa trông chừng mấy bông mai, nửa ngong ngóng xa xa.

– Cho cháu sờ hoa chút lấy may.

Rồi không chờ bà đồng ý, anh đã chạm được vào cái màu vàng bé xíu trên nụ. Một tín hiệu khởi sự của may mắn.

Lược một đoạn: Trưa cuối năm chợ hoa đông nghẹt, nhờ nắng kéo chân người ta ra đường. Bà già quyết không hạ giá, mặc kệ thiên hạ bán mua. Vả lại, đã có người hứa mua cho bà, hà cớ chi phải hạ giá.

Trời chiều ba mươi tối nhanh. Dòng người rã đám hoa xuân vội vàng. Anh thì chết lặng trước mấy con số cuối cùng hiện nơi màn hình điện thoại. Anh đã thuộc lòng dãy số trên tờ vé, và không cần phải mở ra đối chiếu nữa. Anh biết, trật nốt.

Đèn vàng rọi sáng khu chợ hoa, rọi xuống chỗ bà già giờ không còn ngồi nữa mà đứng hẳn. Bà đứng vẫn thấp hơn cành mai chút xíu. Năm cái hoa mai đã nở khum khum rõ ràng. Cả bà, cả cành mai cũng rõ ràng trong cái đêm ba mươi chợ hoa đã thưa hẳn người. Ai muốn tìm ai lúc này quá dễ. Sao ông khách hôm trước vẫn chưa đến.

Anh vò cặp vé, rồi như chưa hả giận, lại măn mo mở nó ra để xé nát vụn, tung lên cao. Anh cười khà khà, nhưng điệu cười cũng gượng gạo, giống như là cố mà cười, buông xuôi. Thôi, cũng phải đi một vòng hưởng cái không khí chợ hoa ngày tết, dù nó đã tàn tạ hết rồi.

Cuối chợ hoa, anh bắt gặp ông khách hôm trước vào hỏi giá cành mai chỗ bà già. Suýt nữa anh đã nhào đến túm lấy ông kêu mai nở rồi, quay lại mà mua cho người ta kẻo tội. Nhưng anh tỉnh ra, anh không có quyền trong việc này.

Và anh quay lại chỗ bà già. Động tác nhanh nhạy giật lấy cành mai.

– Để cháu giữ cho. Bà đi đến cuối bãi nhanh lên, ông khách đang ở đó.

Bà già tỉnh hẳn ra.

– Khéo rụng, chú. Tui còn được cái này ăn tết, chú đừng lừa tui tội nghiệp.

– Nhanh lên bà, không ông đi mất.

– Nhưng... Lỡ chú lấy của tui.

– Bà cho cháu cũng chả thèm. Nợ đòi sau đít còn rước thêm cái của nợ này làm gì. Xu lủng trong túi còn không có, nói chi mai với miếc.

Bà toan đi được dăm bước, quay lại. Lần khẩn.

– Thôi để cháu vác nó đi theo bà.

Rồi không đợi bà đồng ý, anh rút cành mai khỏi cái hộp cát. Tựa cành trên vai, anh như người có tiền vừa tậu được cành mai đón xuân. Bà già dắt cái xe đạp cà tàng đi phía sau, dây xích mòn nghiến bánh răng khô khốc kêu lụp cụp.

Chín giờ đêm, chợ hoa giờ chỉ còn là một cái bãi trống ngổn ngang những chậu cúc bị đập vỡ tanh bành. Vài người cuối bãi đang uể oải xếp đặt đồ lên xe, phì phèo phun khói thuốc, mặt mày không chút hớn hở. Giờ mà còn ở đây thì đúng là chỉ có đám thất bát. Anh hỏi thăm về ông già mặc áo dạ xám lúc nãy.

– Ông già lởn vởn tối nay ấy à. Về rồi. Mất tiền giữa chợ mấy ngày tết nhất đố mà tìm cho được.

Anh giúp bà buộc cành mai vào xe đạp. Xong anh rút từ túi ra hai tờ vé số, cười mếu máo.

– Bà một cái, cháu một cái. Vé này qua năm mùng bốn mới xổ. Thôi, chia nhau hy vọng ba ngày tết.

Bà nhét cái vé cạp quần, dắt xe đi lầm lũi. Anh ngắm theo, thấy nhúm hoa mai trong đêm như những con đom đóm nhập nhòa.

(Bán một cành mai ăn tết, tuyển tập Truyện ngắn Hoàng Công Danh, NXB Trẻ 2024, tr.7 – 18.)

* Chú thích: Hoàng Công Danh sinh năm 1987, hiện công tác ở Tạp chí Cửa Việt, Quảng Trị. Anh tốt nghiệp kỹ sư ngành Vật lý, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, nhưng đam mê viết văn. Anh đã xuất bản bốn tập truyện ngắn và một tập tùy bút. Truyện Hoàng Công Danh thấm đẫm tình người, hóm hỉnh và rất có duyên.

Thực hiện các yêu cầu:

Câu 1. Xác định hai nhân vật chính của truyện ngắn trên.

Câu 2. Chỉ ra các câu văn sử dụng biện pháp so sánh ở phần in đậm.

Câu 3. Việc sử dụng ngôi kể thứ ba trong truyện có ý nghĩa như thế nào?

Câu 4. Suy nghĩ về hình ảnh của người lao động trong câu “Vài người cuối bãi đang uể oải xếp đặt đồ lên xe, phì phèo phun khói thuốc, mặt mày không chút hớn hở.”.

Câu 5. Nhận xét ngắn gọn vai trò của nhan đề đối với chủ đề, tư tưởng của truyện.

1
20 giờ trước (9:24)

1. Hai nhân vật chính trong lược đoạn đầu truyện là:

  • Bé Hồng: cô bé nghèo, ngoan, rất thương mẹ.
  • Người mẹ: vất vả, lam lũ nhưng giàu tình thương con.

2. Các câu văn có biện pháp so sánh trong phần đầu truyện:

  1. “Mưa bụi bay lất phất như khói.”
  2. “Bé Hồng co ro trong tấm áo mỏng như cái lá chuối khô.”
  3. “Bàn tay mẹ gầy gò, xương xẩu như cành củi khô.”
  4. “Cành mai ướt nước mưa, rung rinh như muốn khóc.”
  5. “Mẹ cười, nụ cười héo hắt như nắng cuối chiều.”

→ Các biện pháp so sánh này giúp gợi hình ảnh rõ nét, diễn tả cái nghèo và tình cảm nhẹ nhàng, sâu lắng.


3. Ý nghĩa của việc sử dụng ngôi kể thứ ba:

  • Tạo cái nhìn khách quan, bao quát.
  • Giúp người đọc đồng cảm với cả mẹ và con.
  • Gợi chất thơ, làm tăng tính nghệ thuật.
  • Tạo khoảng cách hợp lý để người đọc tự suy ngẫm và cảm nhận ý nghĩa câu chuyện.

5 Vai trò của nhan đề với chủ đề, tư tưởng truyện:

  • Nhan đề “Bán một cành mai ăn Tết” gợi ra hoàn cảnh nghèo khổ nhưng vẫn ấm áp tình thương.
  • Là biểu tượng cho sự hy sinh thầm lặng của người mẹ.
  • Góp phần thể hiện tư tưởng nhân văn: ca ngợi tình mẫu tử, tình người trong nghèo khó.
  • Câu 4 em ko làm được ạ sorry cô
14 tháng 6

Đáp án là: Danh tiếng

14 tháng 6

💪😎

14 tháng 6

Olm chào em, cảm ơn đánh giá của em về chất lượng bài giảng của Olm, cảm ơn em đã đồng hành cùng Olm trên hành trình tri thức. Chúc em học tập hiệu quả và vui vẻ cùng Olm em nhé!

14 tháng 6

Đúng rồi, rất hay!

14 tháng 6

Olm chào em, hiện em đang là tài khoản vip của Olm, vì vậy em có thể luyện lại được em nhé.

14 tháng 6

được mà

14 tháng 6

a) Mà bên nước tôi thì đang hửng lên cái nắng bốn giờ chiều, cái nắng đậm đà của mùa thu biên giới.

  • Kiểu ẩn dụ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (nắng đậm đà).
  • Tác dụng: Từ "đậm đà" vốn dùng để chỉ vị giác (món ăn đậm đà, hương vị đậm đà), nay được dùng để miêu tả cái nắng, gợi cảm giác cái nắng có chiều sâu, có sự tích tụ của hương vị, của đặc trưng riêng biệt của mùa thu vùng biên giới. Điều này giúp người đọc hình dung một cách cụ thể, sống động và giàu cảm xúc hơn về vẻ đẹp, sự đặc trưng của khung cảnh thiên nhiên.

b) Về thăm quê Bác làng Sen/ Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.

  • Kiểu ẩn dụ: Ẩn dụ vật thể (hoa râm bụt) cho hành động ("thắp lên lửa hồng").
  • Tác dụng: Hình ảnh hoa râm bụt đỏ rực như những đốm lửa đang cháy không chỉ gợi tả màu sắc tươi tắn, rực rỡ của hoa mà còn tạo ấn tượng mạnh mẽ về sự sống động, ấm áp, thân thuộc của làng quê. Từ "thắp" mang ý nghĩa của sự khởi nguồn, lan tỏa, khiến cho cảnh vật trở nên có hồn hơn, sinh động hơn, đồng thời gợi cảm giác thiêng liêng, ấm cúng khi về thăm quê Bác.

c) Người Cha mái tóc bạc/ Đốt lửa cho anh nằm.

  • Kiểu ẩn dụ: Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác hoặc ẩn dụ hành động (Đốt lửa cho anh nằm).
  • Tác dụng: "Đốt lửa" ở đây không chỉ đơn thuần là hành động tạo ra ngọn lửa vật lý. Nó mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc, có thể hiểu là:
    • Sự sưởi ấm, che chở: Ngọn lửa tượng trưng cho sự ấm áp, yêu thương mà người cha dành cho con, sưởi ấm cả về thể chất lẫn tinh thần trong hoàn cảnh khó khăn.
    • Niềm hy vọng, sự sống: Ngọn lửa còn có thể tượng trưng cho ngọn lửa của sự sống, của niềm tin, ý chí chiến đấu mà người cha muốn truyền cho con.
    • Sự hy sinh, vất vả: Hành động "đốt lửa" còn ngụ ý sự hy sinh thầm lặng, vất vả của người cha để đảm bảo sự an toàn, ấm áp cho con.
  • Biện pháp ẩn dụ này làm nổi bật tình phụ tử thiêng liêng, cao cả, đồng thời khắc họa hình ảnh người cha đầy tình yêu thương, trách nhiệm và sự hy sinh.
14 tháng 6

Trong câu thơ "Cày đồng vào buổi ban trưa / Mồ hôi thanh thót như mưa ruộng cày", phép so sánh có tác dụng rất mạnh mẽ và ý nghĩa:

  1. Diễn tả sự vất vả, cực nhọc đến tột cùng:
    • Phép so sánh "mồ hôi thanh thót như mưa ruộng cày" nhấn mạnh lượng mồ hôi đổ ra không chỉ nhiều mà còn liên tục, không ngừng nghỉ, giống như những hạt mưa rơi dày đặc trên cánh đồng. Điều này gợi hình ảnh người nông dân phải làm việc dưới cái nắng gay gắt của buổi trưa, đến mức mồ hôi tuôn ra như tắm.
    • Nó cho thấy sự lao động thủ công rất nặng nhọc, tốn nhiều sức lực và mồ hôi.
  2. Khắc họa chân thực hiện thực lao động của người nông dân:
    • Hình ảnh so sánh này rất cụ thể, dễ hình dung, giúp người đọc cảm nhận rõ rệt sự gian truân, cực khổ của người nông dân khi phải "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời".
    • Nó lột tả được cái khắc nghiệt của công việc đồng áng dưới thời tiết khắc nghiệt.
  3. Tăng tính gợi hình, gợi cảm cho câu thơ:
    • Phép so sánh tạo ra một hình ảnh sống động, trực quan về lượng mồ hôi, khiến câu thơ không chỉ là sự miêu tả đơn thuần mà còn là sự cảm nhận sâu sắc về nỗi vất vả.
    • Giúp người đọc cảm nhận được sự "thanh thót" (tức là mồ hôi rơi xuống liên tục từng giọt) và sự rộng lớn của "ruộng cày" đang được tưới đẫm bằng chính mồ hôi của người lao động.

Tóm lại, phép so sánh trong câu thơ này không chỉ đơn thuần là so sánh về lượng mà còn là so sánh về cường độ, sự liên tục, qua đó làm nổi bật sự gian khổ, chịu khó và sức lao động bền bỉ phi thường của người nông dân Việt Nam.

14 tháng 6

- Biện pháp tu từ: so sánh: Cày đồng vào buổi ban trưa/"Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày"

- Tác dụng:

+ Làm câu thơ sinh động, có nhịp điệu và hình ảnh rõ ràng.

+ Nhấn mạnh sự vất vả, mồ hôi rơi nhiều như mưa khi người nông dân lao động.

+ Thể hiện sự trân trọng, cảm phục người nông dân cần cù, lam lũ.

14 tháng 6
Cả hai đoạn văn đều miêu tả hành động vội vàng của Yasuaki-chan, nhưng cách sử dụng cấu trúc câu khác nhau tạo ra hiệu ứng khác biệt. Đoạn (1) sử dụng các câu đơn, mỗi câu tập trung vào một hành động, tạo cảm giác rời rạc, chậm rãi, nhấn mạnh sự lúng túng của Yasuaki-chan. Ngược lại, đoạn (2) sử dụng câu ghép, kết hợp các hành động lại, tạo cảm giác liền mạch, nhanh chóng, thể hiện sự vội vàng và sự tập trung vào một mục tiêu duy nhất. So sánh chi tiết:
  • Đoạn (1):
    • Cấu trúc: Các câu đơn, mỗi câu là một mệnh đề độc lập, tập trung vào một hành động riêng lẻ: "Yasuaki-chan vội vàng đi về phía bạn", "Yasuaki-chan kéo lê đôi chân", "Yasuaki-chan giơ tay về phía trước để giữ thăng bằng".
    • Tác dụng: Cách diễn đạt này tạo ra một cảm giác ngắt quãng, rời rạc. Mỗi câu như một khoảnh khắc riêng biệt, làm nổi bật sự lúng túng, vụng về của Yasuaki-chan khi cố gắng di chuyển nhanh. Việc sử dụng các câu đơn cũng làm cho nhịp điệu của đoạn văn chậm lại, nhấn mạnh từng hành động một.
  • Đoạn (2):
    • Cấu trúc: Câu ghép, các hành động được nối lại với nhau bằng dấu phẩy: "Yasuaki-chan vội vàng đi về phía bạn, kéo lê đôi chân, giơ tay về phía trước để giữ thăng bằng".
    • Tác dụng: Cách diễn đạt này tạo ra một cảm giác liên tục, liền mạch. Các hành động được kết nối với nhau, thể hiện sự vội vàng và tập trung của Yasuaki-chan vào việc di chuyển về phía bạn. Nhịp điệu của đoạn văn nhanh hơn, tạo cảm giác hành động diễn ra liên tục, dồn dập.
Tác dụng của việc lựa chọn cấu trúc câu của tác giả: Tác giả đã khéo léo sử dụng cấu trúc câu để tạo ra hiệu ứng khác biệt. Đoạn (1) được sử dụng để miêu tả sự lúng túng, vụng về của nhân vật, trong khi đoạn (2) lại thể hiện sự vội vàng và tập trung. Bằng cách lựa chọn cấu trúc câu phù hợp, tác giả đã làm nổi bật được trạng thái tâm lý và hành vi của nhân vật, giúp người đọc hình dung rõ hơn về tình huống và tính cách của Yasuaki-chan. Tóm lại: Cấu trúc câu không chỉ đơn thuần là một phương tiện diễn đạt, mà còn là một công cụ nghệ thuật giúp tác giả truyền tải thông điệp và tạo ra hiệu ứng cảm xúc mong muốn trong lòng người đọc. 
14 tháng 6

- So sánh:

Câu 1

Câu 2

Câu hỏi đầy đủ, rõ ràng: "Chú mày bị sao thế?"

→ Mang tính thông tin, thể hiện sự quan tâm cụ thể.

Câu hỏi ngắn, lặp lại từ: "Sao? Sao?"

→ Mang tính cảm xúc, thể hiện sự bất ngờ, bối rối

- Tác dụng:

+ Câu 1: Thể hiện sự chủ động hỏi han, rõ ràng, trực tiếp - nhân vật muốn biết chuyện gì đang xảy ra.

+ Câu 2: Câu hỏi lặp ngắn, thiếu hoàn chỉnh → thể hiện tâm trạng hoang mang, ngạc nhiên, chưa hiểu rõ chuyện gì.