K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:Thổn thức gió đồng(Dương Giao Linh) Lược một đoạn: Truyện là dòng kí ức của cậu bé tên Lâm, Lâm không sinh ra ở làng nhưng lớn lên ở làng – một vùng ốc đảo hoang vắng với vẻ đẹp nguyên sơ, bình dị. Làng của Lâm trải qua những xáo trộn trong thời kì phát triển kinh tế, dẫn đến nhiều bất ổn... Dì Lam...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Thổn thức gió đồng

(Dương Giao Linh)

Lược một đoạn: Truyện là dòng kí ức của cậu bé tên Lâm, Lâm không sinh ra ở làng nhưng lớn lên ở làng – một vùng ốc đảo hoang vắng với vẻ đẹp nguyên sơ, bình dị. Làng của Lâm trải qua những xáo trộn trong thời kì phát triển kinh tế, dẫn đến nhiều bất ổn... Dì Lam là dì ruột của Lâm, vì thương mẹ mà dì phải chia tay với người mình yêu để lấy chồng gần (một ông chủ xưởng đóng tàu thuyền), làm dâu được một năm thì dì xách quần áo bỏ về làng vì không thể sống với con người độc ác đó. Người làng bàn tán. Sau đó, dì Lam bỏ đi biệt xứ.

[...] Tôi trở lại với ruộng đồng, nơi những mảnh ruộng ít ỏi còn lại một năm hai vụ gieo cấy. Người làng tôi từ những người nông dân chỉ biết cấy lúa và trồng rau giờ đi làm thợ xây và làm thuê cho dự án. Cuộc sống bớt lam lũ và cơ cực hơn. Nhưng sao tôi vẫn thấy đầy bất an khi đi giữa làng quê mình tiếng còi xe và nhạc băng ầm ĩ thay cho những lời hát ru con mỗi buổi trưa hè. [...]

Mẹ tôi đêm nào cũng đóng cửa ngồi tết chổi rơm đến muộn. Sớm mai mang ra chợ bán cũng đủ tiền mua thức ăn qua ngày. Tôi thương đôi bàn tay gầy rặt những xương của mẹ. Qua những vụ mùa mà vẫn còn vương mùi rơm rạ. Những ngôi nhà trong làng đã khang trang, không khí khác trước nhiều lắm. Còn trong ngôi nhà tôi, mọi thứ dường như vẫn thế. Vẫn không gian bình lặng và an yên, như mạch nước ngầm âm ỉ chảy. […]

Tiếng dép lẹp kẹp dừng trước khoảng sân ngập nắng:

– Lâm!

Tôi ngẩng đầu lên. Trước mặt tôi là người đàn bà mảnh khảnh, hai gò má nhô cao lưa thưa những đốm tàn nhang. Đôi mắt to đen nhìn tôi.

Tôi thảng thốt:

– Dì Lam!

Dì đứng đó, không chạy lại xoa đầu tôi như ngày bé nữa. Có lẽ vì tôi đã cao lớn lắm rồi. Giờ dì không còn coi tôi như một thằng bé buổi sáng dì dắt ra đồng bắt cua, đêm đêm ôm vào lòng đọc truyện cho nghe nữa. Sau mấy phút ngỡ ngàng tôi mới nhận ra đứng cạnh dì là một bé gái mặc áo hoa đỏ, thắt hai bím nơ xinh xắn đang tròn xoe mắt nhìn vào tôi.

– Chào anh Lâm đi con!

Con bé ôm hai chân mẹ. Dì Lam bế nó lên, thơm thơm vào má con rồi quay ra tôi. Giọng dì chầm chậm nhưng rõ từng từ, giống như cái đêm tôi gặp dì ngoài cánh đồng:

– Dì sinh em trong Nam đấy. Tên nó là Cải, hoa cải bên sông làng mình đấy Lâm!

Tôi cười với Cải. Dì đặt tên em nghe cũng buồn quá. Tôi dẫn dì ra giếng, kéo gàu nước đổ vào chậu thau. Dì Lam vốc nước rửa mặt rồi rửa cho Cải. Tôi không hỏi dì về năm tháng đã qua. Nhìn dì vui với đứa con gái là tôi biết dì vui vẻ lắm. Mẹ tôi vẫn bảo, cá chuối đắm đuối vì con. Đời người đàn bà chẳng gì bằng đứa con mình dứt ruột đẻ ra. Nó là tương lai, là lẽ sống của cả đời người đàn bà. Đàn bà bất hạnh nhất không phải là người đàn bà không được chồng thương yêu mà là người đàn bà không con.

Mẹ đã nghe tin dì Lam về từ đầu làng nên dáng vẻ tất tả. Quẳng quang gánh trên vai xuống:

– Dì Lam đâu?

Dì nhìn mẹ. Vẫn đôi mắt to đen bình thản và an vui như nhìn tôi ban nãy. Bao năm rồi tưởng những nỗi giận dì vẫn còn chưa nguôi ngoai trong lòng mẹ. Tưởng những nỗi xấu hổ vì có đứa em gái bỏ chồng rồi bỏ cả làng mà đi vẫn còn khiến mẹ không muốn nhìn mặt dì. Vậy mà... mẹ khóc.

Tôi lớn lên chứng kiến bao nhọc nhằn trên vai mẹ mà chưa lần nào thấy mẹ khóc. Chỉ những mất mát mới làm mẹ rơi nước mắt. Còn giờ đây? Là niềm vui đấy chứ? Sao mẹ khóc? Tôi chạy đến đặt tay lên vai mẹ. Mẹ ngồi xuống thềm, đầu cúi xuống, quệt ngang tay áo. Dì Lam lại gần ôm vai mẹ. Hình như dì không khóc. Đôi mắt dì vẫn bình thản như thế. Từ cái ngày dì quỳ trước mặt bà ngoại xin bà tha tội nhưng nhất quyết không trở lại nhà chồng.

Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ. Khi đã đi qua được những nỗi đau, những mất mát lớn nhất của cuộc đời thì ắt hẳn sẽ không có gì khiến con người ta mềm yếu nữa. Nhưng có lẽ cái mất mát lớn nhất ấy là trái tim kia đã đanh chắc lại, ít cảm xúc hơn, như một cách để tự vệ, để không bị tổn thương thêm bất cứ lần nào nữa.

Tôi nhớ dì Lam của tôi những ngày ngồi chong đèn viết thơ và truyện gửi đăng báo. Dì Lam lúc ấy với mái tóc dài luôn được tết gọn gàng. Đôi mắt trong veo nhìn mà cứ như đang cười. Đó là những tháng năm đẹp nhất của dì. Giờ, đi qua thời con gái dì vẫn giữ được thần thái trong ánh mắt. Đó là ánh mắt của người đàn bà đã trải người, đã thấu hiểu sự đời nên bình tâm trước mọi cái. Ông ngoại tôi vẫn bảo, chỉ cần cái tâm mình an yên, thanh thản là mọi thứ sẽ xuôi hết. Tôi tin cái tâm của dì Lam tôi đã an.

Tôi dỗ em Cải, bế em ra ngoài vườn.

(In trong tập “Thổn thức gió đồng”, Nhiều tác giả, NXB Hội Nhà văn, 2021, tr.274 – 276)

* Chú thích: Tác giả Dương Giao Linh tên thật là Vũ Thị Quỳnh Giao, là hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Sáng tác của nhà văn là những cảm nhận, suy tư về cuộc sống, về con người và những biến động của thời cuộc... qua đó chuyển tải những triết lí nhân sinh sâu sắc.

Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.

Câu 2. Liệt kê các chi tiết cho thấy sự thay đổi của làng quê nơi nhân vật “tôi” sống.

Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu văn sau: “Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ.”.

Câu 4. Phân tích sự phù hợp của điểm nhìn trần thuật trong việc thể hiện chủ đề của đoạn trích.

Câu 5. Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đã và đang thay đổi như vùng quê của nhân vật “tôi”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? (trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng)

1
21 tháng 5

Dưới đây là lời giải chi tiết cho từng câu hỏi về đoạn trích “Thổn thức gió đồng”:


Câu 1. Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể trong đoạn trích trên.

Trả lời:
Dấu hiệu để xác định ngôi kể là việc sử dụng đại từ nhân xưng “tôi” xuyên suốt đoạn trích. Nhân vật “tôi” xưng kể, trực tiếp kể lại câu chuyện và những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Ngoài ra, các từ ngữ như “tôi trở lại”, “tôi ngẩng đầu lên”, “tôi thảng thốt”, “tôi dẫn dì”, “tôi nhớ dì Lam”,… đều thể hiện rõ đây là ngôi kể thứ nhất.


Câu 2. Liệt kê các chi tiết cho thấy sự thay đổi của làng quê nơi nhân vật “tôi” sống.

Trả lời:

  • Người làng từ những người nông dân chỉ biết cấy lúa, trồng rau giờ đi làm thợ xây và làm thuê cho dự án.
  • Cuộc sống bớt lam lũ và cơ cực hơn.
  • Tiếng còi xe và nhạc băng ầm ĩ thay cho những lời hát ru con mỗi buổi trưa hè.
  • Những ngôi nhà trong làng đã khang trang, không khí khác trước nhiều lắm.

**Câu 3. Phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu văn sau:

“Tháng năm có thể khiến con người ta tiều tụy đi, yếu mòn đi. Nhưng tháng năm lại khiến ý chí của con người ta can trường và bền bỉ.”**

Trả lời:
Biện pháp tu từ được sử dụng là điệp ngữ (“tháng năm có thể khiến...”, “nhưng tháng năm lại khiến...”) và phép đối giữa hai vế của hai câu.

  • Tác dụng:
    • Nhấn mạnh tác động của thời gian lên con người: thời gian có thể làm con người tiều tụy, yếu mòn về thể xác, nhưng cũng chính thời gian ấy lại tôi luyện cho con người ý chí can trường, bền bỉ về tinh thần.
    • Làm nổi bật sự đối lập giữa thể xác và tinh thần, giữa mất mát và trưởng thành, qua đó thể hiện triết lí nhân sinh sâu sắc về sức mạnh nội tâm của con người trước thử thách của cuộc đời.

Câu 4. Phân tích sự phù hợp của điểm nhìn trần thuật trong việc thể hiện chủ đề của đoạn trích.

Trả lời:
Đoạn trích được kể theo điểm nhìn của nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất), giúp câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi và giàu cảm xúc.

  • Nhờ điểm nhìn này, người đọc dễ dàng cảm nhận được những biến đổi của làng quê, những trăn trở, suy tư và tình cảm sâu sắc của nhân vật đối với gia đình, quê hương, đặc biệt là với mẹ và dì Lam.
  • Điểm nhìn trần thuật này cũng giúp tác giả thể hiện chủ đề về sự đổi thay của làng quê, về giá trị của tình thân, về sức mạnh vượt qua nghịch cảnh của con người một cách tự nhiên, chân thành và sâu sắc.

Câu 5. Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn hiện nay đã và đang thay đổi như vùng quê của nhân vật “tôi”. Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? (5–7 dòng)

Trả lời:
Cuộc sống ở nhiều vùng nông thôn đang thay đổi nhanh chóng, đời sống vật chất được nâng cao, cơ sở hạ tầng phát triển, người dân có nhiều cơ hội việc làm hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những đổi thay tích cực, cũng xuất hiện không ít vấn đề như mất đi nét đẹp truyền thống, môi trường sống bị ảnh hưởng, các giá trị văn hóa dần phai nhạt. Theo em, mỗi người cần biết trân trọng, giữ gìn những giá trị tốt đẹp của quê hương, đồng thời thích nghi với sự phát triển để xây dựng một cuộc sống hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc truyền thống.


Nếu bạn cần mở rộng, phân tích sâu hơn hoặc muốn cô gợi ý cách trình bày, hãy hỏi nhé!

Đề thi đánh giá năng lực

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: CON ĐƯỜNG LÀNG (Nguyễn Thị Việt Hà)Cái ngõ xoan nhà bàLối rất quanh co, đường vàng rơm rạNgười đi làm đồng buổi sáng vác cày bừa vội vãĐể chiều về thong thả cánh đồng xanhCái ngõ xoanSáng nay rưng rứcTrên luống ngô, khoai, lạc, rau khúc ngả buồnChập chờn cánh chuồnNặng cơn mưa báo...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

CON ĐƯỜNG LÀNG
(Nguyễn Thị Việt Hà)

Cái ngõ xoan nhà bà
Lối rất quanh co, đường vàng rơm rạ
Người đi làm đồng buổi sáng vác cày bừa vội vã
Để chiều về thong thả cánh đồng xanh
Cái ngõ xoan
Sáng nay rưng rức
Trên luống ngô, khoai, lạc, rau khúc ngả buồn
Chập chờn cánh chuồn
Nặng cơn mưa báo trước
Con đường làng...bà ơi...cháu chưa đi hết
Dẫu chân đã đặt đến nơi vượt qua tổ quốc mình
Người ta vẫn hay chùng chình
Sa vào đám đông, cuộc vui, quên con đường quê bé nhỏ
Quên lối cỏ
Bước chân lúc nhỏ chăn trâu lối giẫm đã mòn
Cháu đã chạm chân mấy lần vòng tròn đất nước
Nhưng cháu vẫn chưa đi hết
Con đường làng
Một ngày...
Rắc vàng...
Gò Đống Mối...
Bà ngủ thảnh thơi trên cánh đồng vừa thu hoạch xong vụ lúa
Bà ơi rau khúc đã già
Cháu chợt nhớ ra chưa từng học làm bánh khúc từ bà...

(Khi chúng ta già, tuyển tập thơ Nguyễn Thị Việt Hà, NXB Phụ nữ Việt Nam, 2019, tr.140 – 142)

Câu 1. Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Câu 2. Chỉ ra những câu thơ miêu tả dáng hình, trạng thái của “cái ngõ xoan nhà bà”.

Câu 3. Phân tích ý nghĩa của biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu: Trên luống ngô, khoai, lạc, rau khúc ngả buồn.

Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về hai chữ “chùng chình” được sử dụng trong đoạn thơ:

Người ta vẫn hay chùng chình
Sa vào đám đông, cuộc vui, quên con đường quê bé nhỏ
Quên lối cỏ
Bước chân lúc nhỏ chăn trâu lối giẫm đã mòn

Câu 5. Theo anh/chị, ta cần làm gì để tuổi trẻ trôi đi không nuối tiếc? (trình bày khoảng 5 – 7 dòng)

1
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆMCâu hỏi 1: Khi tìm hiểu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học qua những tác phẩm cụ thể, chúng ta cần:A. Xác định được mối liên hệ giữa những tác phẩm cụ thể với một trường phái văn học nhất định nào đó.B. Xác định được sự khác biệt của tác phẩm cụ thể với tác phẩm thuộc trường phái khác.C. Xác định được tuyên ngôn chung của các...
Đọc tiếp

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM

Câu hỏi 1: Khi tìm hiểu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học qua những tác phẩm cụ thể, chúng ta cần:

A. Xác định được mối liên hệ giữa những tác phẩm cụ thể với một trường phái văn học nhất định nào đó.

B. Xác định được sự khác biệt của tác phẩm cụ thể với tác phẩm thuộc trường phái khác.

C. Xác định được tuyên ngôn chung của các tác phẩm cùng trường phái văn học.

D. Nêu các luận điểm về nội dung mà các tác phẩm hướng tới.

(Đáp: A và B)

Câu hỏi 2: Phương án nào nêu KHÔNG chính xác các thao tác cần thực hiện khi tìm hiểu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học qua những tác phẩm cụ thể:

A. Nêu được các luận điểm khái quát về phong cách sáng tác của trường phái mà những tác phẩm nghiên cứu chịu sự chi phối, tác động.

B. Phân tích được các phương diện thể hiện dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái qua những tác phẩm cụ thể thuộc trường phái đó.

C. Chỉ ra được nét độc đáo của tác phẩm nghiên cứu so với các tác phẩm khác thuộc cùng trường phái.

D. Nêu được tuyên ngôn của các tác giả nổi tiếng thuộc một trường phái văn học nhất định. (Đáp án: D)

Câu hỏi 3: Câu nào sau đây nêu chính xác lưu ý cần thực hiện khi tìm hiểu dấu ấn phong cách sáng tác của một trường phái văn học qua những tác phẩm cụ thể:

A. Tìm hiểu phong cách sáng tác của một trường phái văn học cần phải nghiên cứu trên tất cả các phương diện để đảm bảo tính khách quan.

B. Phong cách sáng tác của một trường phái văn học vốn được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng tuỳ vào điều kiện và yêu cầu nghiên cứu, có thể chỉ cần tập trung tìm hiểu một phương diện nào đó.

C. Phong cách sáng tác của một trường phái văn học có thể được nghiên cứu qua tuyên ngôn của tác giả trong một tác phẩm cụ thể.

D. Phong cách sáng tác của một trường phái văn học cần được tìm hiểu qua quan điểm sáng tác của nhà văn tiêu biểu của trường phái đó.

(Đáp án: B)

Câu hỏi 4: Khi nghiên cứu một “mẫu” cụ thể để làm nổi bật phong cách sáng tác của trường phái văn học, cần lưu ý:

A. Tránh việc xem “mẫu” đó chỉ có giá trị minh hoạ cho sự tồn tại của phong cách sáng tác chung của trường phái văn học.

B. Chọn “mẫu” mang dấu ấn giao thoa của nhiều trường phái.

C. Không cần so sánh, đối chiếu “mẫu” với các “mẫu” cùng trường phái.

D. Không cần coi trọng phong cách riêng của nhà văn trong “mẫu” được chọn.(Đáp án: A)

Câu hỏi 5: Tìm, liệt kê các cứ liệu trong “mẫu” khảo sát có thể chứng minh được: A. Phong cách của trào lưu không ảnh hưởng đến phong cách sáng tác của tác giả.

B. Sự chi phối của phong cách sáng tác chung đối với hoạt động sáng tạo tác phẩm cụ thể của nhà văn, nhà thơ.

C. Không có sự khác biệt của các phong cách sáng tác trong một trào lưu, trường phái.

D. Dấu ấn của sự giao thoa trào lưu trong một “mẫu”.(Đáp án: B)

1
19 tháng 5

có đáp án rồi gửi làm gì


18 tháng 5

 Tác giả Phan Đình Diệu:

+ GS Phan Đình Diệu sinh ngày 12/6/1936 tại xã Trung Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình có truyền thống hiếu học.

+ Ông là giáo sư, nhà toán học, nhà khoa học máy tính của Việt Nam.

18 tháng 5

Trong văn học Việt Nam, hai bài thơ "Việt Nam Đất Nước Ta Ơi" của Nguyễn Đình Thi và "Việt Nam" của Lê Anh Xuân là những tác phẩm nổi tiếng, đều thể hiện tình yêu và lòng tự hào đối với đất nước Việt Nam. Mỗi bài thơ mang đến cái nhìn riêng, nhưng đều chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử và tâm hồn dân tộc sâu sắc.

Bài thơ "Việt Nam Đất Nước Ta Ơi" của Nguyễn Đình Thi thể hiện sự gắn bó mật thiết với đất nước, với những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế, lãng mạn để diễn đạt tình cảm của mình đối với tổ quốc. Bài thơ này thường được coi là biểu tượng của tình yêu quê hương chân thành và sâu đậm.

Trong khi đó, bài thơ "Việt Nam" của Lê Anh Xuân thể hiện một góc nhìn sâu sắc về quá khứ, hiện tại và tương lai của đất nước. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ, sâu sắc để phản ánh những biến cố lịch sử, những nỗi đau và hy vọng của dân tộc Việt Nam. Bài thơ này thường được coi là một tác phẩm châm biếm, góp phần kích thích nhận thức và tinh thần yêu nước của đọc giả.

Dù có những khác biệt về cách tiếp cận và diễn đạt, cả hai bài thơ đều thể hiện sự yêu thương và tự hào đối với đất nước, khẳng định vai trò quan trọng của tình yêu quê hương trong cuộc sống của mỗi người dân Việt Nam. Những tác phẩm văn học như vậy không chỉ góp phần bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ mai sau, khơi dậy lòng tự hào và trách nhiệm yêu nước trong tâm hồn mỗi người.

17 tháng 5

Năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông và sau đó xuất gia tu hành tại chùa Khai Phúc thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình). Đến năm 1299, ông dời đến núi Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành theo khổ hạnh và lập ra Thiền phái Trúc Lâm, lấy hiệu Hương Vân Đại Đầu Đà.


Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được ra đời vào cuối thế kỷ XIII, cụ thể vào khoảng năm 1299.

✨ Đây là thiền phái thuần Việt đầu tiên, do vua Trần Nhân Tông sáng lập sau khi ông nhường ngôi, lên núi Yên Tử tu hành và lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng.

⛰️ Thiền phái Trúc Lâm kết hợp tinh hoa của ba dòng thiền: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường, đồng thời gắn liền với tinh thần nhập thế, yêu nước, gắn đạo với đời.