K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

Qua việc ca ngợi vị thần núi Tản Viên, Cao Bá Quát bộc lộ ước muốn cứu dân, cứu nước của mình. Hơn nữa, hình tượng núi Tản đã từng tượng trưng cho khí phách hào hùng của dân tộc ta.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

Tác giả đã thể hiện sự khoáng đạt, cao khiết, mạnh mẽ, rắn rỏi khi miêu tả thiên nhiên núi Tản Viên. Núi Tản Viên là một danh sơn trên cả các danh sơn từ xưa đến nay, hiên ngang hùng dũng đứng trấn thủ ở phía Nam của vùng đất cực Nam, núi Tản Viên còn là biểu tượng của đất Bắc. Khi đứng trước thắng cảnh ấy, tình cảm của ông bao giờ cũng là tình cảm hai chiều: Yêu thương và trách nhiệm.

Thần núi Tản Viên là vị thần chủ nhân của đỉnh núi Tản Viên. Tác giả đã thể hiện sự khâm phục, kính trọng trước vị thần này. Được ra đời từ xã hội nguyên thuỷ, lúc đầu Tản Viên chỉ đơn giản là thần núi được thờ để che chở cho con người. Bước vào nhà nước Văn Lang thời cổ đại, Tản Viên trở thành vị anh hùng truyền thuyết của cả cộng đồng quốc gia dân tộc.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

Bốn mặt tròn xoe, đỉnh sát từng trời, đất cao, đá khe…

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

Ngợi ca, thương tiếc và kính phục những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc vào năm 1861.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

Tác giả đã khéo léo thay đổi giọng văn từ tráng lệ hào hùng sang đau xót tiếc thương trước sự ra đi của gần hai mươi người anh hùng đất Cần Giuộc. Chính giọng văn ngậm ngùi trầm lắng đã thể hiện cảm xúc xót thương.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

Từ “Ôi thôi thôi!” đến hết.

→ Tác giả luận về ý nghĩa cao cả của sự hi sinh và bày tỏ tình cảm xót thương của nhân dân đối với những người vì nước quên thân:

- Sự xót thương dành cho người nghĩa sĩ, nỗi đau thương trùm lên đời sống và số phận người mẹ già ngồi khóc trẻ trong lều khuya leo lét ánh đèn.

- Cái chết của nghĩa binh đánh động người còn sống ý thức hơn về số phận của đồng bào, nhắc nhở rằng binh tướng giặc còn đó đã làm cho bốn phía mây đen, phải tiếp tục vùng lên để cứu nước, cứu nòi.

- Khẳng định họ mất đi về mặt thể xác nhưng luôn luôn sống trong tâm trí những người dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

a.

a1. Nguồn gốc xuất thân của những người nông dân nghĩa sĩ

- Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn đất mới để kiếm sống): “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời

a2. Người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với lòng yêu nước nồng nàn

- Khi thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ rồi đến trông chờ tin quan - ghét - căm thù - đứng lên chống lại.

Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo sợ là chuyện bình thường

Sự chờ đợi “quan”: như “trời hạn trông mưa”

Thái độ đối với giặc: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”

- Thái độ căm ghét, căm thù đến tột độ được diễn tả bằng những hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực

- Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm. → Họ chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”

a3. Người nông dân nghĩa sĩ cao đẹp bởi tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân

- Tinh thần chiến đấu tuyệt vời: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”

- Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử → làm rõ nét hơn sự anh dũng của những người nông dân nghĩa sĩ

- Lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

b. 

- Nghệ thuật tương phản: “chưa quen - chỉ biết, vốn quen - chưa biết”.

- “đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi.

- Sử dụng các động từ chéo “đâm ngang, chém ngược” → làm tăng thêm sự quyết liệt của trận đánh.

→ Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

- Lòng yêu nước của nghĩa nhân dân soi sáng khắp nơi

- Tác giả đã tái hiện được bối cảnh thời địa với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị những vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân vô tội. Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ không hề sợ chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lý của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục. 

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

- Người nghĩa sĩ sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia... 

- Dù đã ra đi nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn khẳng định rằng linh hồn của các nghĩa sĩ vẫn còn sống mãi, vẫn phù hộ để chống giặc ngoại xâm. Lời khẳng định cho thấy niềm tự hào vô cùng sâu sắc, cho thấy Nguyễn Đình Chiểu đã đặt người nông dân đúng vào vị trí có thực của họ trong lịch sử, toát lên một vẻ đẹp tâm hồn cao quý, lưu danh với hậu thế ngàn thu. Họ sống một cuộc sống anh hùng, chết một cái chết vinh quang. 

- Chết mà như sống, linh hồn nghĩa binh vẫn cùng nhân dân đánh giặc, vẫn tiếp tục trung quân ái quốc. Ước nguyện trả đền nợ nước, trở thành lời thề thiêng liêng vang vọng núi sông. Cái chết hóa thân vào núi sông, cái chết hóa thành bất tử.

- Quan niệm “chết vinh còn hơn sống nhục” lại được thắp sáng qua hình ảnh và cuộc đời của họ.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 3

+ Nỗi nuối tiếc, hận cho những người phải hi sinh sự nghiệp dang dở, chí nguyện chưa thành

+ Nỗi xót xa của gia đình mất người thân

+ Nỗi căm hờn những kẻ gây ra khó khăn, đau khổ

+ Tiếng khóc uất nghẹn trước tình cảnh đau thương của dân tộc