Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Tiếp xúc với tác phẩm SVIP
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Tác giả của văn bản Tiếp xúc với tác phẩm là ai?
Về tác giả Thái Bá Vân
− Sinh năm 1934, mất năm 1999, quê quán tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
− Từng tốt nghiệp khoa Sử học nghệ thuật, trường Đại học Karlova, Praha, Tiệp Khắc và làm thực tập viên ưu tú của Viện Hàn lâm Khoa học Slovakia và Đại học Mỹ thuật Bratislava.
− Là một nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Việt Nam.
− Từng công tác tại Viện Mỹ thuật Hà Nội và Viện Mỹ thuật Việt Nam.
− Có những bài viết mang dấu ấn riêng, sâu sắc và độc đáo. Những bài viết của ông tập hợp chủ yếu trong tác phẩm Tiếp xúc với Nghệ thuật do Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành.
Tác giả Thái Bá Vân sinh ra tại
Về tác giả Thái Bá Vân
− Sinh năm 1934, mất năm 1999, quê quán tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
− Từng tốt nghiệp khoa Sử học nghệ thuật, trường Đại học Karlova, Praha, Tiệp Khắc và làm thực tập viên ưu tú của Viện Hàn lâm Khoa học Slovakia và Đại học Mỹ thuật Bratislava.
− Là một nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Việt Nam.
− Từng công tác tại Viện Mỹ thuật Hà Nội và Viện Mỹ thuật Việt Nam.
− Có những bài viết mang dấu ấn riêng, sâu sắc và độc đáo. Những bài viết của ông tập hợp chủ yếu trong tác phẩm Tiếp xúc với Nghệ thuật do Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành.
Tác giả Thái Bá Vân đã từng công tác tại những Viện Mỹ thuật nào dưới đây? (Chọn 2 phương án)
Về tác giả Thái Bá Vân
− Sinh năm 1934, mất năm 1999, quê quán tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
− Từng tốt nghiệp khoa Sử học nghệ thuật, trường Đại học Karlova, Praha, Tiệp Khắc và làm thực tập viên ưu tú của Viện Hàn lâm Khoa học Slovakia và Đại học Mỹ thuật Bratislava.
− Là một nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật Việt Nam.
− Từng công tác tại Viện Mỹ thuật Hà Nội và Viện Mỹ thuật Việt Nam.
− Có những bài viết mang dấu ấn riêng, sâu sắc và độc đáo. Những bài viết của ông tập hợp chủ yếu trong tác phẩm Tiếp xúc với Nghệ thuật do Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành.
Tác giả Thái Bá Vân nổi tiếng với tư cách là một
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Văn bản Tiếp xúc với tác phẩm được trích từ
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Văn bản Tiếp xúc với tác phẩm thuộc kiểu văn bản nào dưới đây?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Phương thức biểu đạt chính của văn bản Tiếp xúc với tác phẩm là
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngán tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Xác định nội dung chính của từng phần trong văn bản Tiếp xúc với tác phẩm.
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Vấn đề được đặt ra trong văn bản Tiếp xúc với tác phẩm là
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Để làm rõ vấn đề được đặt ra trong văn bản, tác giả Thái Bá Vân đã phân tích, đánh giá chủ yếu về bức tranh nào dưới đây?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Bức tranh Em Thuý là tác phẩm của hoạ sĩ
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Theo tác giả Thái Bá Vân, mỗi tác phẩm có đời sống. Đó là đời sống và đời sống .
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Theo Thái Bá Vân, hai đời sống, hai tồn tại của một tác phẩm là đời sống
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Theo tác giả Thái Bá Vân, sự tồn tại vật thể của tác phẩm là như một đời sống
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Theo tác giả Thái Bá Vân, sự tồn tại tinh thần của tác phẩm là như một đời sống hình tượng
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Nối để xác định đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm Mô-na Li-da (Mona Lisa).
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Sắp xếp các chi tiết dưới đây vào hai cột đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm Em Thuý.
- Kiểu hội hoạ bác học châu Âu
- Một tấm vải khổ 45 × 60cm
- Khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người
- Khung bằng gỗ
- Trong ý thức của người xem
- Chất liệu màu dầu
Đời sống vật thể
Đời sống hình tượng
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Theo tác giả Thái Bá Vân, bản chất hiện thực của một tác phẩm phụ thuộc vào yếu tố nào dưới đây?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Tác giả Thái Bá Vân nhấn mạnh vai trò của đối tượng nào dưới đây trong việc tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Mục đích chính của văn bản Tiếp xúc với tác phẩm là
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Nhận xét nào dưới đây là chính xác về đặc trưng ngôn ngữ của văn bản Tiếp xúc với tác phẩm?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Nhận xét nào dưới đây là không đúng về đặc sắc nghệ thuật trong văn bản Tiếp xúc với tác phẩm?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Hệ thống luận điểm, lý lẽ, bằng chứng logic, liên kết chặt chẽ với nhau. |
|
b) Yếu tố tự sự đậm nét, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung. |
|
c) Ngôn ngữ khô khan, lý luận và mang đậm tính bác học. |
|
d) Ngôn ngữ có tính lý luận, cô đọng nhưng gần gũi, giàu cảm xúc. |
|
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Từ quan điểm của Thái Bá Vân, điều gì dưới đây giúp một tác phẩm nghệ thuật có sức sống lâu dài?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Trong văn bản, tác giả đã so sánh việc một bức tranh không có người xem với hình ảnh nào dưới đây?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Những tác phẩm nghệ thuật nào dưới đây không được nhắc tới trong văn bản? (Chọn 2 phương án)
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Đời sống tinh thần, thẩm mỹ của một hình tượng nghệ thuật có đặc điểm nào dưới đây?
Tiếp xúc với tác phẩm
(Trích Tiếp xúc với nghệ thuật)
1. Đời sống vật thể và đời sống hình tượng của tác phẩm
Vô tình tôi có một tác phẩm: Em Thuý của Trần Văn Cẩn chẳng hạn. Tác phẩm đó là một, không thay đổi. Tuy nhiên tôi nói rằng nó có hai đời sống, hai tồn tại. Một, là sự tồn tại vật thể, như một đời sống đồ vật. Mặt khác, là sự tồn tại tinh thần như một hình tượng nghệ thuật, của giá trị thẩm mĩ.
Nếu tỉ dụ của tôi không quá khập khiễng, thì tôi coi nó giống như con người, có đời sống thể xác và đời sống tâm hồn. Đành rằng không bao giờ tôi có thể tách thể xác và tâm hồn một con người thành hai phần rời rạc. Nhưng nó vẫn là hai.
Và đời sống phong phú, nhân bản và trường tồn của con người cũng như của nghệ thuật, là hướng về giá trị tinh thần. Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh sống mãi, rung động từng trái tim, chắc chắn là Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh như một giá trị tinh thần.
Bà Mô-na Li-da (Mona Lisa) vật thể là của nước Pháp, bảo tàng Lu-vrơ (Louvre) canh giữ, nhưng bà Mô-na Li-da hình tượng thì là tài sản của mỗi tâm hồn chúng ta.
Mục đích bao la của tác phẩm nghệ thuật cũng thế. Xưa nay vẫn là chỗ vượt lên trên đời sống cơ bắp có thật của mình để đạt tới cái đẹp của hình tượng, như một giá trị tinh thần, nhiều khi còn mơ màng, xa xôi cũng được.
Trở lại bức tranh Em Thúy. Chừng nào tôi chỉ bận tâm đo đếm, rằng đó là một tấm vải, khổ 45 × 60 cm, rằng nó được vẽ bằng màu dầu, kiểu hội hoạ bác học châu Âu, rằng nó có khung bằng gỗ,... thì chừng đó Em Thúy vẫn còn là đồ vật. Nhích lên, dù cho tôi thấy rằng Em Thúy rất giống thật, rằng hai tay em chắp lại trên đùi, mắt mở to, rồi tôi còn nhớ cả vài chỗ đã nứt trên mặt sơn, vài vệt sơn đã bong,... thì cũng vậy. Em Thuý gửi đi bằng bưu điện hay chở bằng xích lô đó, mới chỉ là Em Thuý nguyên vật liệu.
Là tác phẩm nghệ thuật, Em Thúy còn, và buộc phải còn một đời sống khác, bản chất khác. Đó là Em Thúy hình tượng.
Hiện tượng phân hoá này không xảy ra trên bức tranh. Bức tranh vẫn là một. Hiện tượng này xảy ra trong ý thức tôi, ở cái khả năng trừu tượng hoá của đầu óc con người.
Tôi muốn nói rằng, Em Thúy hình tượng là Em Thúy phi vật thể. Và chính đấy mới là Em Thúy tác phẩm, em Thúy nội dung.
Nội dung của một tác phẩm không phải là ở cái kết cấu vật thể của nó, mà chính là ở cái hình tượng nghệ thuật mà nó chuyển chở.
2. Giá trị chủ quan của tác phẩm
Tôi không biết em Thúy thật là ai cả. Tôi chưa bao giờ gặp người đó. Tôi không hề thấy mặt mũi em ra sao, tính tình em thế nào, để kết luận như thường tình rằng bức tranh giống hay không giống, hiện thực hay không hiện thực. Và tôi tự hỏi, cái tiêu chuẩn "phán ánh đúng hiện thực", cái tầm quan trọng của đề tài và khách thể, đối với mĩ thuật, tôi nên hiểu như thế nào? Có nhất thiết tôi phải biết em Thúy là ai, như thế nào, nghĩa là nhất thiết tôi phải hiểu thấu đề tài và khách thể là cái gì, rồi tôi mới hiểu được bức tranh không? Tôi xin thưa rằng, không.
Tôi không biết em Thúy là ai cả. Tôi chỉ biết có tác giả Trần Văn Cẩn. Dù đứng trước tranh, tôi cũng không thấy một em Thúy nào cả, cho rằng em được vẽ giống như ảnh chụp, ngon lành, hay kì quái thế nào đi nữa, mà tôi chỉ thấy có họa sĩ Trần Văn Cẩn.
Rồi tôi sẵn sàng đổi chủ đề và tên gọi bức tranh, là "Tuổi thơ", hay "Học sinh tiên tiến",... thì tưởng rằng giá trị thẩm mĩ, hay ý nghĩa nội dung cũng không hề thay đổi, vì bản chất hiện thực vẫn vậy, vẫn là một.
Dấn lên, tôi hiểu rằng, bản chất hiện thực ở một tác phẩm không hề là cái kết cấu vật thể của đề tài, hình thù, màu sắc nằm trên mặt tranh, như thế này hay như thế khác, gọi là tên này hay tên khác, mà chính là cái hiện thực hình tượng.
Hiện thực hình tượng ở Em Thuý là cái thế giới nội tâm của Trần Văn Cẩn, là con mắt nhìn đời của Trần Văn Cẩn vào những năm 40 thế kỉ này. Sự ứng xử thẩm mĩ của ông là hiện thực, ở chỗ đã nói lên nỗi niềm riêng của ông trước cuộc văn minh Âu hoá nước nhà, phần nhập cuộc, và do dự của ông, một người làm chứng, trước thế sự. Ít ra là vậy.
3. Nội dung của tác phẩm được người xem mở rộng
Đời sống vật thể của một tác phẩm dĩ nhiên phải đẹp nhưng không thay đổi, bao giờ cũng là một. Em Thuý vật thể vẫn vậy 45 năm nay. Sự đo đếm của mọi thời, mọi người đối với bức tranh vật thể thì ai cũng giống ai. Trong khi đó, đời sống tinh thần, thẩm mĩ của hình tượng lại không bao giờ đứng yên. Nó di chuyển, sinh động, phong phú ở từng thời, từng buổi, từng nơi chốn, trước từng con người, tuỳ thuộc vào tư chất và trình độ. Đời sống của Em Thuý hình tượng, Em Thuý nội dung dẫn dắt về những miền rung động khác nhau, trước từng khán giả.
Vậy, cái mà Trần Văn Cẩn đặt vào tranh, không phải là cái cố định.
Hiểu rằng hiện thực, nội dung của tác phẩm chính là cái kết cấu vật thể hữu hạn (của đề tài, màu và hình) mà người hoạ sĩ đặt lên tấm vải thì chưa đủ. Hiện thực và nội dung của tác phẩm còn sinh nở vô hạn trong đầu óc và con mắt người xem nữa. Tất cả chúng ta đây, đều mỗi người một khía cạnh, một cấp độ khác nhau, đóng góp thêm vào hiện thực và nội dung trên từng Hà Nội phố của Bùi Xuân Phái. Một tác phẩm hàm súc bao giờ cũng dành cho trí tưởng tượng của người xem một cánh cửa tự do hé mở, chờ đợi ở người xem sự bù đắp chủ quan.
Tôi có cảm tưởng rằng một bức tranh, khi không có người xem giống như chiếc bật lửa có đủ ga và đá nằm nguội lạnh trên bàn. Phải có một ngón tay bật vào bánh xe để ngọn lửa bùng lên, là giống như giây phút một cái nhìn chạm vào bức tranh, để hình tượng nghệ thuật trên đó được thức tỉnh, sống lại, và sống thêm một mặt đời mới.
(Theo Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật,
Viện Mỹ thuật Việt Nam ấn hành, Hà Nội, 1998, tr.8 − 10)
Nhận xét nào dưới đây là không đúng về các luận điểm trong văn bản Tiếp xúc với tác phẩm?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây