Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo của Sở Giáo dục và Đào tạo Nghệ An (Đợt 3) SVIP
(4,0 điểm) Đọc văn bản sau:
BÁN MỘT CÀNH MAI ĂN TẾT
(Hoàng Công Danh)
Lược phần đầu: Khi anh rướn người nhét cặp vé số chưa bán được vào túi quần thì nhìn thấy một bà cụ già. Bà ngồi trên cái ghế nhựa nhỏ, tay giữ một cành mai gầy không một chồi lá lộc. Hôm qua đến giờ bà đã hạ giá cả chục lần. Từ bốn triệu khi khách đầu tiên hỏi, rồi giảm mỗi lần hai, ba trăm... Một ông khách bước tới: – Cái này mà nở kịp tết tui mua, một bông thôi cũng được. Ông thắp lên cho bà niềm hy vọng, bà lại nâng giá: “Ba triệu, không thêm không bớt.”. Anh bám theo ông già, và hỏi: – Sao ông lại muốn mua, mà phải chờ nó nở. – Ấy là giống mai quý ở trong cung đình Huế ngày xưa, gọi là “mai tiến vua”, “mai ngự”. Ông già dặn đừng nói cho bà cụ biết, lỡ bà tưởng đang giữ của quý lại thêm tội nghiệp.
Ba mươi tết, trời hửng nắng, ấm hẳn. Mấy lô mai như ngóng tin ấm từ tối qua để sáng ra đã thấy vàng rực. Tới trưa, chùm nụ cành mai của bà đã hé. Trời không phụ công bà già hai hôm tưới ấm xông nhang. Dù trên búp chỉ mới hé vàng như cái dấu nẻ chân chim, nhưng ngồi bên này quán cóc anh cũng nhìn thấy được. Phải vì cái màu vàng của mai nó vừa mắt quá, hay vì màu đấy nổi bật giữa cành gầy khô đét và một người đàn bà cũng gầy đét khô khan.
Anh nhào qua đường, đến chỗ bà già ngắm thật đã cái màu vàng hoa vừa nhú. Không phải một hoa, cả một chùm năm bông luôn. Chỉ cần thế thôi, chỉ cần trời kiểu này thôi tới chiều nó sẽ bung hoa cho mà xem.
Bà đưa tay đẩy anh ra.
– Cẩn thận nó rụng chú ơi.
Ánh mắt bà liếc lóm, nửa trông chừng mấy bông mai, nửa ngong ngóng xa xa.
– Cho cháu sờ hoa chút lấy may.
Rồi không chờ bà đồng ý, anh đã chạm được vào cái màu vàng bé xíu trên nụ. Một tín hiệu khởi sự của may mắn.
Lược một đoạn: Trưa cuối năm chợ hoa đông nghẹt, nhờ nắng kéo chân người ta ra đường. Bà già quyết không hạ giá, mặc kệ thiên hạ bán mua. Vả lại, đã có người hứa mua cho bà, hà cớ chi phải hạ giá.
Trời chiều ba mươi tối nhanh. Dòng người rã đám hoa xuân vội vàng. Anh thì chết lặng trước mấy con số cuối cùng hiện nơi màn hình điện thoại. Anh đã thuộc lòng dãy số trên tờ vé, và không cần phải mở ra đối chiếu nữa. Anh biết, trật nốt.
Đèn vàng rọi sáng khu chợ hoa, rọi xuống chỗ bà già giờ không còn ngồi nữa mà đứng hẳn. Bà đứng vẫn thấp hơn cành mai chút xíu. Năm cái hoa mai đã nở khum khum rõ ràng. Cả bà, cả cành mai cũng rõ ràng trong cái đêm ba mươi chợ hoa đã thưa hẳn người. Ai muốn tìm ai lúc này quá dễ. Sao ông khách hôm trước vẫn chưa đến.
Anh vò cặp vé, rồi như chưa hả giận, lại măn mo mở nó ra để xé nát vụn, tung lên cao. Anh cười khà khà, nhưng điệu cười cũng gượng gạo, giống như là cố mà cười, buông xuôi. Thôi, cũng phải đi một vòng hưởng cái không khí chợ hoa ngày tết, dù nó đã tàn tạ hết rồi.
Cuối chợ hoa, anh bắt gặp ông khách hôm trước vào hỏi giá cành mai chỗ bà già. Suýt nữa anh đã nhào đến túm lấy ông kêu mai nở rồi, quay lại mà mua cho người ta kẻo tội. Nhưng anh tỉnh ra, anh không có quyền trong việc này.
Và anh quay lại chỗ bà già. Động tác nhanh nhạy giật lấy cành mai.
– Để cháu giữ cho. Bà đi đến cuối bãi nhanh lên, ông khách đang ở đó.
Bà già tỉnh hẳn ra.
– Khéo rụng, chú. Tui còn được cái này ăn tết, chú đừng lừa tui tội nghiệp.
– Nhanh lên bà, không ông đi mất.
– Nhưng... Lỡ chú lấy của tui.
– Bà cho cháu cũng chả thèm. Nợ đòi sau đít còn rước thêm cái của nợ này làm gì. Xu lủng trong túi còn không có, nói chi mai với miếc.
Bà toan đi được dăm bước, quay lại. Lần khẩn.
– Thôi để cháu vác nó đi theo bà.
Rồi không đợi bà đồng ý, anh rút cành mai khỏi cái hộp cát. Tựa cành trên vai, anh như người có tiền vừa tậu được cành mai đón xuân. Bà già dắt cái xe đạp cà tàng đi phía sau, dây xích mòn nghiến bánh răng khô khốc kêu lụp cụp.
Chín giờ đêm, chợ hoa giờ chỉ còn là một cái bãi trống ngổn ngang những chậu cúc bị đập vỡ tanh bành. Vài người cuối bãi đang uể oải xếp đặt đồ lên xe, phì phèo phun khói thuốc, mặt mày không chút hớn hở. Giờ mà còn ở đây thì đúng là chỉ có đám thất bát. Anh hỏi thăm về ông già mặc áo dạ xám lúc nãy.
– Ông già lởn vởn tối nay ấy à. Về rồi. Mất tiền giữa chợ mấy ngày tết nhất đố mà tìm cho được.
Anh giúp bà buộc cành mai vào xe đạp. Xong anh rút từ túi ra hai tờ vé số, cười mếu máo.
– Bà một cái, cháu một cái. Vé này qua năm mùng bốn mới xổ. Thôi, chia nhau hy vọng ba ngày tết.
Bà nhét cái vé cạp quần, dắt xe đi lầm lũi. Anh ngắm theo, thấy nhúm hoa mai trong đêm như những con đom đóm nhập nhòa.
(Bán một cành mai ăn tết, tuyển tập Truyện ngắn Hoàng Công Danh, NXB Trẻ 2024, tr.7 – 18.)
* Chú thích: Hoàng Công Danh sinh năm 1987, hiện công tác ở Tạp chí Cửa Việt, Quảng Trị. Anh tốt nghiệp kỹ sư ngành Vật lý, Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, nhưng đam mê viết văn. Anh đã xuất bản bốn tập truyện ngắn và một tập tùy bút. Truyện Hoàng Công Danh thấm đẫm tình người, hóm hỉnh và rất có duyên.
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định hai nhân vật chính của truyện ngắn trên.
Câu 2. Chỉ ra các câu văn sử dụng biện pháp so sánh ở phần in đậm.
Câu 3. Việc sử dụng ngôi kể thứ ba trong truyện có ý nghĩa như thế nào?
Câu 4. Suy nghĩ về hình ảnh của người lao động trong câu “Vài người cuối bãi đang uể oải xếp đặt đồ lên xe, phì phèo phun khói thuốc, mặt mày không chút hớn hở.”.
Câu 5. Nhận xét ngắn gọn vai trò của nhan đề đối với chủ đề, tư tưởng của truyện.
Hướng dẫn giải:
Câu 1 (0,5 điểm)
Nhân vật chính: Anh bán vé số và bà già bán cành mai tết.
Câu 2 (0,5 điểm)
Các câu sử dụng biện pháp so sánh trong phần in đậm:
– Mấy lô mai như ngóng tin ấm từ tối qua để sáng ra đã thấy vàng rực.
– Dù trên búp chỉ mới hé vàng như cái dấu nẻ chân chim, nhưng ngồi bên này quán cóc anh cũng nhìn thấy được.
Câu 3 (1,0 điểm)
Việc sử dụng ngôi kể thứ ba trong truyện có ý nghĩa:
– Người kể đứng ngoài quan sát, kể lại câu chuyện, thấu hiểu tâm tư, cảm xúc của nhân vật (nỗi lo của bà cụ bán mai, sự thất vọng của anh chàng bán vé số,...).
– Kể chuyện khách quan, không bị chi phối bởi cảm xúc hay định kiến của một nhân vật cụ thể,...
Câu 4 (1,0 điểm)
Suy nghĩ về hình ảnh của người lao động trong câu văn là:
– Tâm trạng buồn chán, mệt mỏi trước cảnh buôn bán ế ẩm.
– Cuộc sống vất vả, lam lũ để mưu sinh, tồn tại.
Câu 5 (1,0 điểm)
Nhận xét ngắn gọn vai trò của nhan đề đối với chủ đề, tư tưởng của truyện:
– Góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của truyện: Những khó khăn, nhọc nhằn của người lao động giữa đời thường; khơi gợi niềm tin, hy vọng vào tương lai tươi sáng của họ,…
– Định hướng tiếp nhận cho bạn đọc.
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh/chị hãy viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích tình cảm của nhân vật anh bán vé số đối với bà cụ bán cành mai tết trong truyện ngắn trên.
Câu 2. (4,0 điểm)
Về việc định hướng nghề nghiệp cho giới trẻ hiện nay, có ý kiến cho rằng: Chọn nghề không chỉ là quyền lợi của bản thân, mà còn là trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội.
Anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày quan điểm của mình về vấn đề trên.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. (2,0 điểm)
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Bảo đảm yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn. Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo một trong các cách: Diễn dịch, quy nạp, phối hợp, song song,...
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Phân tích tình cảm của nhân vật anh bán vé số đối với bà cụ bán cành mai tết trong truyện ngắn trên.
c. Viết được đoạn văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở những gợi ý sau:
– Đồng cảm, thấu hiểu, chia sẻ,… với cuộc sống mưu sinh và vất vả của bà.
– Luôn truyền năng lượng tích cực, niềm tin, hy vọng,… vào tương lai cho bà.
– Tình cảm chân thành của người cùng cảnh ngộ, của một tâm hồn nhân văn, tử tế,…
– Cốt truyện giản dị, giàu sức gợi; ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi; nhân vật được xây dựng với điểm nhìn linh hoạt, qua ngôn ngữ đối thoại, hành động,…
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ ngữ, ngữ pháp, liên kết câu trong đoạn văn.
đ. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2. (4,0 điểm)
a. Bảo đảm bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận:
Bảo đảm bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ).
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận:
Chọn nghề không chỉ là quyền lợi của bản thân, mà còn là trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội.
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ xác đáng, bằng chứng tiêu biểu, phù hợp; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
* Thân bài:
– Giải thích:
+ Chọn nghề là quyền lợi của bản thân: Là quyền lựa chọn công việc phù hợp với sở thích, năng lực, hoàn cảnh... để phát triển bản thân, mưu sinh và theo đuổi đam mê.
+ Chọn nghề là trách nhiệm với cộng đồng, xã hội: Nghề nghiệp không chỉ phục vụ cá nhân mà còn góp phần xây dựng, bảo vệ và phát triển cộng đồng.
=> Ý kiến nhấn mạnh rằng chọn nghề không chỉ là quyền, mà còn là bổn phận, trách nhiệm công dân.
– Bàn luận: HS đưa ra câu trả lời của bản thân, bàn luận thuyết phục trên cơ sở các gợi ý sau:
+ Chọn nghề là quyền lợi của bản thân:
++ Thỏa mãn sở thích, ước mơ, phát huy năng lực nghề nghiệp của cá nhân, hướng tới sự ổn định, thành công và hạnh phúc,...
++ Tự do chọn nghề thể hiện sự dân chủ và tiến bộ của xã hội,...
+ Chọn nghề là trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội:
++ Đáp ứng được sự đòi hỏi về nhu cầu nghề nghiệp của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển,...
++ Đóng góp cho cộng đồng và xã hội,...
– Mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác.
+ Chọn nghề cần phù hợp nhu cầu cá nhân và xã hội.
+ Việc chọn nghề của giới trẻ cần có sự tư vấn đồng hành của gia đình, nhà trường, xã hội,…
* Kết bài: Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề.
Lưu ý: Thí sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Diễn đạt:
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ ngữ, ngữ pháp, liên kết câu trong đoạn văn.
đ. Sáng tạo:
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.