Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết SVIP
I. LÍ THUYẾT
1. Ngôn ngữ nói
Ví dụ: Dưới đây là một trích đoạn trong cuộc trò chuyện giữa nhà báo Phan Đăng và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư:
− Điều gì sẽ xảy ra nếu văn chương không còn tồn tại trong đời sống con người?
− Ôi! Tôi toàn nghĩ những chuyện kiểu như sáng mai nấu món gì, xăng còn lên giá nữa không, ông con ra trường thì có tìm được việc ổn định không, cuốn sau viết về gì, rạp đang có phim nào mới. Tôi không bao giờ nghĩ một ý nghĩ quá sức viển vông như là giả định văn chương sẽ không tồn tại. Bởi, văn chương chắc không phải là khối vật lý nằm trong một xác sách nào mà người ta đốt trụi là xong. Má tôi đi chợ thấy một vụ ẩu đả, về kể tôi nghe. Và, tôi như thể tận thấy cuộc tranh chấp đó bởi những chi tiết, hình ảnh mà má tôi − bằng cái duyên kể chuyện vốn có − truyền tải lại. Tôi nghĩ ấy là văn chương rồi. Còn lời là còn văn chương. Giờ ta ra một giả định khác, là loài người mắc cúm câm không nói được nữa nhưng giả định ấy là kiểu cho tiểu thuyết, tôi sẽ đặt gạch để dành đây.
(Phan Đăng, Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: Tôi không sợ bóng mình, báo Công an nhân dân online, ngày 13/04/2022)
➜ Trong câu trả lời của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, có những phương tiện ngôn ngữ đặc trưng của ngôn ngữ nói như:
+ Từ cảm thán: Ôi! – thể hiện cảm xúc bất ngờ, chân thật.
+ Từ ngữ địa phương: má – cách gọi mẹ quen thuộc trong phương ngữ Nam Bộ.
+ Lối nói gần gũi, tự nhiên: Tôi toàn nghĩ những chuyện kiểu như..., cuốn sau viết về gì, tôi sẽ đặt gạch để dành đây. – sử dụng lối diễn đạt giống như trò chuyện đời thường, mang tính ngẫu hứng.
+ Từ ngữ đời thường, mang tính khẩu ngữ: xăng còn lên giá nữa không, ông con ra trường, rạp đang có phim nào mới, giả định ấy là kiểu cho tiểu thuyết – gợi nên giọng điệu gần gũi, thân mật.
2. Ngôn ngữ viết
Ví dụ: Đoạn Nguyễn Tuân mô tả xoáy nước sông Đà:
Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà)
➜ Trong đoạn văn trên, đặc điểm của ngôn ngữ viết được thể hiện qua một số yếu tố sau:
+ Ngôn ngữ chuẩn chỉnh về chính tả, từ vựng, ngữ pháp.
+ Nguyễn Tuân đã rất dụng tâm khi sử dụng từ ngữ và xây dựng cấu trúc câu văn dài, phức tạp với cách diễn đạt cầu kì để mô tả sự ghê rợn, nguy hiểm của những xoáy nước trên sông Đà: Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.; Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực.;...
II. THỰC HÀNH
1. Nhận xét các đặc điểm của ngôn ngữ nói được mô phỏng, tái tạo trong hai đoạn trích dưới đây:
a. Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
− Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
− Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
− Có gì ăn thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
− Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
− Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
− Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
− Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
− Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
Bài làm:
− Tình huống giao tiếp thường ngày: gặp thị lần thứ hai ở cổng chợ tỉnh.
− Ngôn ngữ đối thoại, có người nói và người nghe: Tràng và Thị, luân phiên đổi vai.
− Sử dụng nhiều ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ:
Câu hỏi:
@205778330913@
− Sử dụng lớp từ mang tính khẩu ngữ, từ ngữ dễ hiểu, biểu cảm, tiếng lóng, từ đưa đẩy: chả, hẵng, nhá, rích bố cu, ừ … thì …, hà, đếch,...
− Sử dụng nhiều câu rút gọn:
Câu hỏi:
@205778351326@
− Sử dụng nhiều câu đặc biệt:
Câu hỏi:
@205778358865@
b. Thoáng nhìn qua, cụ đã hiểu cơ sự rồi. Làm lí trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lí trưởng, những việc như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công với chồng:
− Các bà đi vào nhà; đàn bà chỉ giỏi lôi thôi, biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút:
− Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ! Có gì mà lại xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta lảng dần đi. Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà quê vốn ghét lôi thôi? Ai dại gì mà đứng ì ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm chứng! Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn, khẽ lay và nói:
− Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
− Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã lắm; người ta bảo cụ hơn người cũng bởi cái cười:
− Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì anh mà anh phải chết? Đời người chứ có phải con ngóe đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi, đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
− Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi, đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp luôn:
− Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã. Có cái gì, ta nói chuyện tử tế với nhau. Cần gì phải làm thanh động lên như thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
− Khổ quá, giá có tôi ở nhà thì có đâu đến nỗi. Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với nhau là đủ. Chỉ tại thằng lí Cường nóng tính không nghĩ trước sau. Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
(Nam Cao, Chí Phèo)
Bài làm:
− Tình huống giao tiếp thường ngày: Chí Phèo sau khi ra tù đến nhà bá Kiến ăn vạ.
− Ngôn ngữ đối thoại, có người nói và người nghe: Bá Kiến, Chí Phèo, các bà vợ và người dân làng Vũ Đại.
− Sử dụng nhiều ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ: quát, dịu giọng, lim dim mắt, rên lên, thân mật hỏi,...
− Sử dụng lớp từ mang tính khẩu ngữ, từ ngữ dễ hiểu, biểu cảm, từ đưa đẩy, từ địa phương: chứ; có gì mà; anh Chí ơi!; tao − bố con nhà mày; đấy thôi; ai làm gì mà; con ngoé; khổ quá!
− Sử dụng nhiều câu rút gọn:
Câu hỏi:
@205778384852@
− Sử dụng nhiều câu đặc biệt:
Câu hỏi:
@205778386184@
➜ Nhận xét: Ngôn ngữ nói trong các đoạn trích dù không phải là ngôn ngữ nói "nguyên bản" nhưng vẫn bảo lưu được những đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nói.
2. Phân tích các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ viết trong đoạn trích sau:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi gây của xác người.
[…] Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.
(Kim Lân, Vợ nhặt)
➜ Các đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ viết được thể hiện qua đoạn trích bao gồm:
+ Ngôn ngữ trau chuốt, đảm bảo các quy định về chính tả, từ vựng, ngữ pháp,...
+ Sử dụng câu văn dài, có cách diễn đạt cầu kì, nhiều thành phần được tổ chức mạch lạc, rõ ràng:
Câu hỏi:
@205778481366@
+ Không sử dụng câu rút gọn, câu đặc biệt.
+ Không sử dụng từ ngữ địa phương, tiếng lóng.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây