

Phan Quốc Huy
Giới thiệu về bản thân



































truyện đồng thoại lớp 6 ???
- Đảm bảo an toàn cá nhân: Phòng thí nghiệm tiềm ẩn nguy cơ ngộ độc, chấn thương, bỏng hóa chất, hỏa hoạn do các hóa chất độc hại, vật liệu dễ cháy, khí gas, vi sinh vật nguy hiểm. Tuân thủ quy tắc giúp người làm giảm thiểu tối đa các rủi ro này cho bản thân.
- Ngăn ngừa tai nạn và bảo vệ tài sản: Việc tuân thủ quy định giúp phòng ngừa các tai nạn không đáng có như cháy nổ, va chạm, hoặc sự cố tràn hóa chất, bảo vệ tài sản và trang thiết bị của phòng thí nghiệm.
- Bảo vệ môi trường: Việc xử lý hóa chất, chất thải không đúng cách có thể gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Tuân thủ các quy tắc xử lý và thải bỏ chất thải giúp giảm tác động tiêu cực đến môi trường.
- Đảm bảo kết quả nghiên cứu chính xác: Quy trình làm việc an toàn và đúng cách là một phần không thể thiếu trong việc đảm bảo độ tin cậy và chính xác của các kết quả nghiên cứu.
- Tuân thủ pháp luật và quy định: Các cơ quan chức năng đặt ra các quy định và tiêu chuẩn an toàn cho phòng thí nghiệm. Tuân thủ các quy định này là trách nhiệm pháp lý và góp phần duy trì môi trường làm việc an toàn cho tất cả mọi người.
0,3x0,3x0,3= 0,3^3 = 0,027
2716,8 ( đã làm tròn )
14/5 -x = 3/5
x = 14/5 -3/5
x = 11/5
câu 4 :
Nhà bạn Duyên nuôi số con thỏ là :
6 + 7 = 13 ( con )
Đáp số : 13 con thỏ
Câu 5:
Trả lời : em thích cách của bạn Dung hơn vì cách của bạn Dung nhanh hơn, dễ thực hiện hơn, và có tư duy toán học hơn .
Trong dòng chảy của văn học, có những hình tượng vượt ra ngoài khuôn khổ của ngôn từ, trở thành ánh sáng soi rọi cả một đời sống tinh thần. Hình tượng “lửa” chính là một biểu tượng như thế. Chế Lan Viên từng viết trong bài Giàn hỏa:
“Ngồi lên chất liệu đời mình
Rót vào đấy xăng của thời đại
Rồi lấy mình làm lửa châm vào
Bài thơ rực cháy…”
Và Nguyễn Đình Thi, trong tiểu luận Tiếng nói văn nghệ, cũng từng khẳng định: “Nghệ thuật đốt lửa trong lòng chúng ta.” Hai nhận định ấy, tưởng như độc lập, nhưng lại gặp nhau ở một điểm cốt lõi: thơ ca trước hết phải là lửa của trái tim nghệ sĩ, và sau đó, trở thành ngọn lửa sưởi ấm, thắp sáng trong lòng người đọc. Sức sống ấy hiện lên thật rực rỡ trong bài thơ Những câu thơ viết đợi mặt trời của Hoàng Nhuận Cầm – một tiếng nói của tuổi trẻ trong chiến tranh, vừa hồn nhiên vừa dữ dội, vừa cháy bỏng vừa lắng đọng.
Trước hết, cần hiểu sâu về những ý kiến trên. Với Chế Lan Viên, thơ không chỉ là chuỗi câu chữ sắp xếp theo vần điệu; thơ phải bùng lên như một giàn hỏa thiêng liêng, lấy chính cuộc đời nhà thơ và cả thời đại làm chất liệu để đốt cháy. Lửa ấy vừa là khát vọng cá nhân, vừa là nỗi đau và niềm tin của cả dân tộc. Còn Nguyễn Đình Thi, từ một góc nhìn khác, nhấn mạnh đến sức lan tỏa của nghệ thuật: một tác phẩm thực sự có giá trị là tác phẩm “đốt lửa trong lòng chúng ta”, nghĩa là khơi gợi cảm xúc, đánh thức tiềm năng thiện lương, thôi thúc con người sống đẹp hơn. Hai nhận định soi chiếu vào nhau, tạo nên một quan niệm toàn vẹn: thơ ca trước hết phải cháy từ trái tim nghệ sĩ, và ngọn lửa ấy phải truyền đến trái tim người đọc, làm cho ngôn từ vượt thoát khỏi hình hài chữ nghĩa để trở thành sự sống tinh thần.
Tinh thần ấy được thể hiện rõ trong Những câu thơ viết đợi mặt trời. Ở đó, Hoàng Nhuận Cầm đã viết bằng tất cả ngọn lửa tuổi trẻ, khi vừa trực tiếp trải qua chiến tranh, vừa ấp ủ khát vọng hòa bình. “Mặt trời” trong bài thơ không chỉ là thiên thể của vũ trụ, mà còn là biểu tượng cho niềm tin, lý tưởng và khát vọng ánh sáng. Những câu thơ ông viết trong đợi chờ ấy không đơn thuần là lời tâm sự, mà chính là ngọn lửa nội tâm bùng lên để chống lại bóng tối chiến tranh. Đọc thơ, ta thấy một ngọn lửa vừa trong trẻo, vừa bền bỉ – ngọn lửa của niềm tin rằng sau đêm dài tăm tối, bình minh vẫn sẽ trở về.
Lửa ấy, trước hết, là lửa của tuổi trẻ. Tuổi trẻ trong thơ Hoàng Nhuận Cầm hồn nhiên, lạc quan, nhưng cũng đầy dũng cảm. Dù đối mặt với bom đạn, nhà thơ vẫn viết bằng một tinh thần tin yêu, vẫn nuôi dưỡng những mơ mộng rất con người. Đó là thứ lửa khiến độc giả hôm nay đọc lại vẫn thấy rưng rưng: ngọn lửa tuổi hai mươi đã vượt lên khói lửa chiến tranh để tỏa sáng bằng thơ.
Đồng thời, đó còn là lửa của tình yêu Tổ quốc và đồng đội. Giữa chiến tranh, thơ ca của Hoàng Nhuận Cầm trở thành nơi lưu giữ những phút giây đời thường, những rung động cá nhân, để rồi từ đó tỏa ra thành một tình yêu rộng lớn hơn: yêu đất nước, yêu hòa bình, yêu sự sống. Cái lửa ấy không hừng hực ồn ào, mà âm ỉ, bền bỉ, đủ để giữ ấm cả một thế hệ.
Và trên hết, Những câu thơ viết đợi mặt trời còn mang lửa của nghệ thuật. Cách viết của Hoàng Nhuận Cầm giàu nhạc điệu, giàu tính hình tượng, vừa lãng mạn vừa hiện thực. Thơ ông không khô cứng luận đề, mà chan chứa tình cảm, để độc giả không chỉ đọc bằng mắt, mà còn thấy như có một ngọn lửa lan vào trái tim mình.
Đúng như Nguyễn Đình Thi từng khẳng định, nghệ thuật đích thực có khả năng đốt lửa trong lòng con người. Đọc Những câu thơ viết đợi mặt trời, ta không chỉ xúc động trước tình cảm cá nhân của nhà thơ, mà còn được tiếp thêm niềm tin vào cuộc sống. Lửa từ thơ lan ra: nó làm ta nhớ đến một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam sống, chiến đấu và hy sinh bằng cả tấm lòng. Nó làm ta thấy mình cần sống có ý nghĩa hơn, không để tuổi trẻ trôi qua vô nghĩa. Và lửa ấy cũng khiến ta hiểu hơn sức mạnh tinh thần của văn chương: trong những thời khắc khó khăn nhất, thơ vẫn có thể trở thành ánh sáng dẫn đường.
Ngọn lửa mà Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Nhuận Cầm nói đến không chỉ giới hạn ở một tác phẩm. Nó hiện diện trong nhiều áng thơ Việt Nam hiện đại. Ta thấy lửa của niềm vui lao động trong Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận), lửa của niềm tin cách mạng trong Ngọn lửa (Nguyễn Khoa Điềm), hay lửa của tình yêu đất nước trong Đất Nước. Trải nghiệm văn học của mỗi người đọc đều ít nhiều gắn với những ngọn lửa ấy: có khi là ngọn lửa khơi gợi lòng biết ơn, có khi là ngọn lửa bùng cháy khát vọng, và có khi là ngọn lửa giúp ta vượt qua bóng tối trong cuộc sống. Văn chương vì thế mà trở thành “nhiên liệu tinh thần” nuôi sống tâm hồn.
Kết lại, hai nhận định của Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi, khi soi vào Những câu thơ viết đợi mặt trời, càng thêm sáng rõ. Thơ ca không chỉ là câu chữ, mà là lửa được châm lên từ trái tim người nghệ sĩ, rồi tỏa sáng, truyền lửa đến trái tim người đọc. Lửa ấy vừa sưởi ấm, vừa thúc giục, vừa soi rọi, khiến ta nhận ra giá trị của tuổi trẻ, của tình yêu, của sự sống. Giữa nhịp sống hôm nay, khi đôi khi con người dễ lạnh lùng và thờ ơ, đọc những vần thơ ấy, ta như được nhắc nhở: hãy giữ cho mình một ngọn lửa – ngọn lửa của lòng nhân ái, của niềm tin, của khát vọng sống đẹp. Bởi chỉ khi còn lửa trong tim, ta mới có thể đi hết cuộc hành trình làm người một cách xứng đáng.
thiếu điểm B bên tên nha
Định lý 2 (phát biểu)
a) Nếu tứ giác có hai cặp cạnh đối bằng nhau (theo độ dài) thì tứ giác đó là hình bình hành.
b) Nếu tứ giác có **một cặp cạnh đối vừa song song vừa bằng nhau thì tứ giác đó là hình bình hành.
Ký hiệu chung cho cả hai phần
Gọi tứ giác \(A B C D\) theo thứ tự (cạnh \(A B , B C , C D , D A\)).
Gọi \(A C\) là một đường chéo.
Cách vẽ hình minh họa (vẽ tay):
- Vẽ tứ giác bất kì \(A B C D\) (không bắt buộc là hình bình hành).
- Vẽ đường chéo \(A C\).
- Đánh dấu các cạnh bằng nhau hoặc song song theo đề bài (dấu “=” cho bằng, mũi tên song song cho song song).
- Ta sẽ dùng hai tam giác \(\triangle A B C\) và \(\triangle C D A\) để so sánh.
Phần (a) — Chứng minh:
Giả thiết: \(A B = C D\) và \(B C = A D\).
Phải chứng minh: \(A B \parallel C D\) và \(B C \parallel A D\) (tức là \(A B C D\) là hình bình hành).
Chứng minh:
- Xét hai tam giác \(\triangle A B C\) và \(\triangle C D A\).
- \(A B = C D\) (giả thiết).
- \(B C = A D\) (giả thiết).
- \(A C\) là cạnh chung.
Vậy theo tiêu chí SSS (ba cạnh bằng nhau), ta có \(\triangle A B C \cong \triangle C D A\).
- Từ đồng dư hai tam giác, các góc tương ứng bằng nhau. Cụ thể:
- \(\angle B A C = \angle D C A\).
- \(\angle B C A = \angle D A C\).
- Quan sát: \(\angle B A C\) là góc giữa đường thẳng \(B A\) và \(A C\); \(\angle D C A\) là góc giữa đường thẳng \(D C\) và \(C A\). Vì hai góc ấy bằng nhau và cùng liên quan đến đường thẳng \(A C\), suy ra đường thẳng \(B A\) song song với đường thẳng \(D C\), tức \(A B \parallel C D\).
Tương tự, từ \(\angle B C A = \angle D A C\) suy ra \(B C \parallel A D\). - Vậy hai cặp cạnh đối của \(A B C D\) song song nhau nên \(A B C D\) là hình bình hành. □
Phần (b) — Chứng minh:
Giả thiết: Một cặp cạnh đối (ví dụ \(A B\) và \(C D\)) song song và bằng nhau (tức \(A B \parallel C D\) và \(A B = C D\)).
Phải chứng minh: \(A B C D\) là hình bình hành (tức còn cặp cạnh kia cũng song song).
Chứng minh:
- Xét hai tam giác \(\triangle A B C\) và \(\triangle C D A\) như trên.
- \(A B = C D\) (giả thiết).
- \(A C\) là cạnh chung.
- Vì \(A B \parallel C D\), nên góc giữa \(B A\) và \(A C\) bằng góc giữa \(D C\) và \(C A\). Tức \(\angle B A C = \angle D C A\).
- Ta có trong hai tam giác \(\triangle A B C\) và \(\triangle C D A\):
- Một cạnh bằng (\(A B = C D\)),
- Một cạnh chung (\(A C\)),
- Góc giữa hai cạnh này bằng (\(\angle B A C = \angle D C A\)).
Do đó theo tiêu chí SAS (cạnh-góc-cạnh), \(\triangle A B C \cong \triangle C D A\).
- Từ đồng dư suy ra \(B C = A D\) (các cạnh tương ứng bằng nhau) và đồng thời các góc tương ứng bằng nhau. Do đó \(\angle B C A = \angle D A C\), suy ra \(B C \parallel A D\).
- Vì \(A B \parallel C D\) đã có và giờ \(B C \parallel A D\) vừa chứng minh, nên \(A B C D\) là hình bình hành. □
Ghi chú/trực quan hóa
- Cả hai chứng minh đều dùng đồng dư tam giác (SSS hoặc SAS) qua đường chéo \(A C\).
- Kết luận: chứng minh ra hai cạnh tương ứng song song → định nghĩa hình bình hành được thỏa mãn.
- Khi vẽ hãy:
- Vẽ \(A B C D\) và đường chéo \(A C\).
- Đánh dấu các cạnh bằng nhau (dấu “=”) hoặc mũi tên song song (nếu có song song).
- Chú thích tam giác \(\triangle A B C\) và \(\triangle C D A\) để thấy rõ các cạnh tương ứng.