Trần Dương Dũng

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trần Dương Dũng
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

a)

  • Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng, nước mặn từ biển Đông và vịnh Thái Lan xâm nhập sâu vào nội đồng.
  • Gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp, nhất là lúa và cây ăn trái, ảnh hưởng sinh kế hàng triệu người dân.
  • Mùa khô kéo dài từ cuối năm đến khoảng tháng 4, lưu lượng nước từ sông Mekong suy giảm, cộng thêm việc xây đập thủy điện ở thượng nguồn làm hạn chế dòng chảy.
  • Gây ra tình trạng hạn hán và thiếu nước nghiêm trọng cho sản xuất và sinh hoạt.
  • Do dòng chảy thay đổi, nạn khai thác cát và rừng đầu nguồn suy giảm, tình trạng sạt lở diễn ra ngày càng nhiều, đe dọa đất sản xuất và khu dân cư.
  • Hệ sinh thái rừng ngập mặn, rừng tràm và đất phèn – đất mặn vốn rất nhạy cảm, nếu khai thác không hợp lý sẽ dẫn đến thoái hóa môi trường, ảnh hưởng lâu dài đến phát triển bền vững
  • b)
  • Giảm diện tích lúa vụ 3, chuyển sang nuôi trồng thủy sản hoặc cây trồng chịu mặn như dừa, khóm (dứa), đậu phộng...
  • Phát triển giống cây trồng chịu hạn, chịu mặn, rút ngắn thời vụ.
  • Xây dựng và nâng cấp hệ thống thủy lợi, đê bao, cống ngăn mặn – giữ ngọt.
  • Tăng cường trữ nước ngọt vào mùa mưa thông qua các hồ chứa, kênh nội đồng, ao sinh thái.
  • Áp dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm, canh tác thông minh với nước.
  • Khuyến khích mô hình luân canh: lúa – tôm, tôm – rừng ngập mặn...
  • Sau Chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975, đất nước đã thống nhất về mặt lãnh thổ, nhưng vẫn tồn tại hai chính quyền, hai hệ thống pháp lý và hai cơ chế quản lý khác nhau ở miền Bắc và miền Nam.
  • Điều này gây khó khăn cho việc quản lý, điều hành và phát triển đất nước một cách đồng bộ.
  • Trong suốt hơn 20 năm chia cắt (1954–1975), nguyện vọng lớn nhất của nhân dân Việt Nam là hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do.
  • Thống nhất về mặt nhà nước là bước tiếp theo tất yếu để hiện thực hóa mục tiêu đó.
  • Sau 1975, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
  • Việc tồn tại hai cơ chế nhà nước sẽ cản trở việc triển khai thống nhất chính sách kinh tế – xã hội, đặc biệt trong công cuộc cải tạo công thương nghiệp và phát triển sản xuất.
  • Việc thống nhất nhà nước giúp Việt Nam có một chính quyền hợp pháp, duy nhất, đại diện cho toàn dân tộc trên trường quốc tế.
  • Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đối ngoại, viện trợ, hợp tác và phát triển kinh tế sau chiến tranh.
  • Từ chủ trương của Hội nghị Trung ương 24, đến tháng 4/1976, cả nước đã tiến hành tổng tuyển cử, thành lập Quốc hội chung, và đến tháng 7/1976, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được chính thức công bố.

Trước năm 1991, ASEAN có 6 thành viên sáng lập và gia nhập sớm:

  • Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan (1967)
  • Brunei (gia nhập năm 1984). Năm 1995 – Việt Nam gia nhập ASEAN
  • Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN.
  • Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự mở rộng của ASEAN về phía Đông Dương.

Năm 1997 – Lào và Myanmar gia nhập

  • Ngày 23/7/1997, LàoMyanmar chính thức trở thành thành viên thứ 8 và thứ 9.
  • Việc gia nhập của hai quốc gia này thể hiện nỗ lực bao trùm toàn bộ Đông Nam Á.

Năm 1999 – Campuchia gia nhập

  • Ngày 30/4/1999, Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN.
  • Sự kiện này hoàn tất quá trình mở rộng, giúp ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia Đông Nam Á.