Lê Thị Ngọc Thúy

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Lê Thị Ngọc Thúy
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1

Nguyễn Bính được nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận xét là nhà thơ “quê mùa” bởi dù sống ở thời đại của những hồn thơ mới nhưng sáng tác của Nguyễn Bính luôn hướng về cảnh, người nhà quê. Bài thơ “Chân quê” được xem như tuyên ngôn về nghệ thuật của ông, cho thấy đặc trưng phong cách và cái tình sâu nặng mà Nguyễn Bính dành cho những giá trị văn hóa truyền thống.

“Chân quê” được sáng tác năm 1936, là một trong những sáng tác nổi bật nhất của Nguyễn Bính. Mở đầu là khung cảnh thân quen của làng quê Việt:

Hôm qua em đi tỉnh về

Đợi em ở mãi con đê đầu làng

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!

Những bài thơ có điệu nói, kể về một câu chuyện (thường là những đổ vỡ, đợi chờ, ngóng trông) là một đặc trưng của thơ Nguyễn Bính. Ta đã từng đắm mình trong cơn mưa xuân có “Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”, nhìn theo màu xanh của giàn trầu, cau cho thỏa nỗi “Tương tư”. Đến với “Chân quê”, ta lại lắng nghe tiếng nói của chàng trai với người con gái. Câu chuyện bắt nguồn từ việc “em đi tỉnh về”. Dường như trong những ngày tháng xa nhau, chàng trai đã chất chứa trong lòng biết bao nhớ thương, chờ đợi. Đến ngày cô gái trở về, anh đứng đợi cô nơi con đê đầu làng rất lâu. Hình ảnh những bờ sông, con đê, bến bãi,…luôn gắn liền với những cuộc ra đi hoặc trở về trong ca dao, dân ca. Đó là biểu tượng cho nghĩa tình làng quê, truyền thống quê hương vẫn mãi tồn tại bất biến dù con người có đi xa tới phương nào. Bốn tiếng cuối câu thơ thứ hai “con đê đầu làng” đều là thanh bằng khiến câu thơ như kéo dài ra theo niềm thương nỗi nhớ. Thế rồi, cô gái xuất hiện với một diện mạo mới: “Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi!”. Sự thay đổi của cô gái đã làm biến đổi dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình. Từ láy “rộn ràng” ở cuối dòng thơ thứ ba cho thấy sự vui tươi, rạng rỡ của cô, đối lập với trạng thái khổ đau, tan vỡ của chàng trai. Khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuya bấm đều là những món đồ tân thời, khác hẳn với trang phục giản dị ở thôn quê. Chính điều ấy đã làm chàng trai phải thốt lên: “em làm khổ tôi!”. Câu thơ có âm điệu tự nhiên như lời ăn tiếng nói hằng ngày với cách xưng hô “em” - “tôi” tình cảm, duyên dáng.

Câu 2


Kinh tế phát triển như vũ bão, có rất nhiều ngành nghề ra đời và đời sống của con người ngày cũng được khởi sắc. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy bên cạnh đó thì có rất nhiều vấn đề lo ngại đó chính là vấn đề về biến đổi khí hậu.

Vậy, đầu tiên chúng ta phải hiểu được biến đổi khí hậu là gì? Ta hiểu đó chính là sự thay đổi của khí hậu diễn ra trong một khoảng thời gian rất dài. Điều này dường như cũng đã tác động đến môi trường sống của nhiều sinh vật sống trên Trái Đất. Sự biến đổi khí hậu này thực sự nó có thể là sự nóng lên của trái đất, hay đó cũng có thể chính là những sự dâng cao mực nước biển do tan băng. Đồng thời thêm một biểu hiện của nó cũng chính là những sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, đồng thời ta dường như cũng thấy được có cả những chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên cũng đã bị biết đổi không theo quy luật tự nhiên như trước kia nữa.

Chúng ta hoàn toàn có thể nhận thấy được rằng chính sự biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Và một trong những biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, là băng tan, kéo theo đó chính là nước biển dâng cao. Hoặc có thể chính là các hiện tượng thời tiết bất thường có thể kể ra đó chính là các hiện tượng như bão lũ, sóng thần, động đất, và ở đó cũng chính còn là hạn hán và giá rét kéo dài… Tất cả những điều này, dường như cũng đã dẫn đến thiếu lương thực. Nguyên nhân quan trọng nhất để dẫn đến sự biến đổi khí hậu này chính là những tác động của con người. Con người đã có những hành vi xả thải các chất thải, những nhà máy xả nguồn thải nhiễm độc chưa qua xử lý vào môi trường bên ngoài gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến với môi trường. Không chỉ dừng lại ở các hoạt động kinh tế mà nông nghiệp với thuốc trừ sâu liều lượng vượt mức, sử dụng bừa bãi,… đã làm ảnh hưởng đến các sinh vật. Con người còn đã làm ảnh hưởng đến thảm thực vật rất lớn.

Có thể nhận thấy được rằng, chính những sự biến đổi khí hậu đang tác động rộng lớn trên toàn thế giới. Và ta có thể thấy được cũng chính từ vài năm trở lại đây thì tất cả nhân loại phải đứng trước những đe dọa của thiên nhiên, đứng trước những thảm họa của thiên tai và dịch bệnh gây nguy hại cho đời sống con người. Có thể kể ra đó chính là các hiện tượng như băng tan hai cực, sóng thần,… Quả thật ta như thấy được lần lượt các thảm họa thiên tai diễn ra trên diện rộng trên nhiều quốc gia. Không nói đâu xa thì ngay trên dải đất hình chữ S của ta cũng đã xảy ra những sự biến đổi bất thường theo chiều hướng cực đoan của thời tiết. Mùa đông như lạnh hơn và mùa hè nóng lên, không còn sự rõ ràng 4 mùa như trước đây nữa. Con người mỗi chúng ta cũng hãy tự ý thức về những việc mình làm có tác động gì xấu đến tự nhiên hay không. Thực sự thì việc biến đổi khí hậu không phải là trách nhiệm của riêng ai mà nó còn là trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả chúng ta. Hãy chung tay và bảo vệ trái đất và bảo vệ chính chúng ta.

Có thế nói được rằng, đây cũng chính là một trong những hiện tượng phổ biến trong thời gian qua. Theo như con số thống kê, số cơn bão trên biển Đông ảnh hưởng đến nước ta với cường độ như cũng rất mạnh có chiều hướng tăng lên, mùa bão kết thúc muộn. Tất cả như không theo những quy luật ổn định như trước đây nữa mà nó biết đổi không theo một quy luật nào càng khiến cho con người chúng ta có nhiều những bất lợi về sức khỏe cũng như đời sống kinh tế đặc biệt là trồng trọt – ngành mà phụ thuộc rất lớn về thời tiết.

Dễ nhận thấy được những sự biến đổi khí hậu còn gây nên tình trạng lũ lụt, thiên tai… Tất cả những điều này dường như cũng đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, thiếu nước sinh hoạt hoặc ô nhiễm nguồn nước. Lúc này đây thì chính kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Không những vậy thì lại còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nông dân

Có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng biến đổi khí hậu mà chúng ta có thể nhận thấy được. Đó chính là do những sự tác động của con người vào chính tự nhiên được coi là nguyên nhân chính gây ra sự biến đổi này

Mỗi người chúng ta cũng nên cần phải thật chủ động nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Chúng ta cũng nên kêu gọi sự chung tay góp sức của cộng đồng quốc tế để có thể đứng ra cứu thế giới và cứu chính chúng ta. Các hoạt động như “giờ trái đất” như cũng là một hoạt động hay để giúp cho trái đất phần nào giảm thiểu được những sự biến đổi khí hậu.

Mỗi người hãy có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường, chúng ta cũng nên hãy tham gia và tổ chức các hoạt động bảo vệ môi trường. Thực sự ta như thấy được có những hoạt động tình nguyện của các cá nhân, tập thể thực sự có ý nghĩa rất là thiết thực và góp phần phát triển cộng đồng bền vững

*Đặc điểm:

+ Là nước đông dân, năm 2020 là 126,2 triệu người, tỉ lệ gia tăng dân số thấp và có xu hướng giảm.

+ Cơ cấu dân số già, số dân ở nhóm 0-14 tuổi chiếm 12% dân số, số dân ở nhóm từ 65 tuổi trở lên chiếm 29% dân số; tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới (84 tuổi năm 2020).

+ Mật độ dân số trung bình khoảng 228 người/km2, phân bố dân cư không đều.

+ Tỉ lệ dân thành thị cao và tăng nhanh, nhiều đô thị nối với nhau tạo thành dải đô thị như Ô-xa-ca, Kô-bê, Tô-ky-ô,…

+ Có các dân tộc: Ya-ma-tô (98% dân số) và Riu-kiu, Ai-nu. Tôn giáo chính là đạo Shin-tô và đạo Phật.

*Phân tích ảnh hưởng

- Số dân đông tạo cho Nhật Bản có một thị trường tiêu thụ nội địa mạnh.

- Cơ cấu dân số già gây ra sự thiếu hụt về lực lượng lao động trong tương lai, tạo ra sức ép lên hệ thống phúc lợi xã hội và giảm khả năng cạnh tranh kinh tế của Nhật Bản.

- Dân cư tập trung với mật độ cao ở các vùng đô thị cũng nảy sinh các vấn đề về nhà ở, việc làm..

*Đặc điểm:

+ Là nước đông dân, năm 2020 là 126,2 triệu người, tỉ lệ gia tăng dân số thấp và có xu hướng giảm.

+ Cơ cấu dân số già, số dân ở nhóm 0-14 tuổi chiếm 12% dân số, số dân ở nhóm từ 65 tuổi trở lên chiếm 29% dân số; tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới (84 tuổi năm 2020).

+ Mật độ dân số trung bình khoảng 228 người/km2, phân bố dân cư không đều.

+ Tỉ lệ dân thành thị cao và tăng nhanh, nhiều đô thị nối với nhau tạo thành dải đô thị như Ô-xa-ca, Kô-bê, Tô-ky-ô,…

+ Có các dân tộc: Ya-ma-tô (98% dân số) và Riu-kiu, Ai-nu. Tôn giáo chính là đạo Shin-tô và đạo Phật.

*Phân tích ảnh hưởng

- Số dân đông tạo cho Nhật Bản có một thị trường tiêu thụ nội địa mạnh.

- Cơ cấu dân số già gây ra sự thiếu hụt về lực lượng lao động trong tương lai, tạo ra sức ép lên hệ thống phúc lợi xã hội và giảm khả năng cạnh tranh kinh tế của Nhật Bản.

- Dân cư tập trung với mật độ cao ở các vùng đô thị cũng nảy sinh các vấn đề về nhà ở, việc làm..

câu 1

Phương thức biểu đạt chính:Biểu cảm

Câu 2:

Nỗi buồn, nỗi cô đơn của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê hương đã không còn

Mong muốn tìm kiếm hơi ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thất vọng cùng cô đơn

Bộc lộ kín đáo lòng yêu nước sâu đậm

Câu3