Hoàng Hương Giang

Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Hoàng Hương Giang
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Câu 1.          Bài làm

      Bản sắc văn hóa là thiêng liêng, quý giá, nó tạo nên nét đặc thù của mỗi dân tộc. Nó dược hình thành trong lịch sử lâu dài của một dân tộc, đúc kết tư kinh nghiệm sống, được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nó tồn tại tự nhiên, được biểu hiện ra bề ngoài nhưng cũng có thể ẩn sâu trong tâm hồn con người. Giữ gìn bản sắc văn hóa là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Cần phải có kế hoạch và giải pháp đổng bộ về bảo tồn về phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam. Trước hết, mỗi người cẩn nhận thức được văn hoá dân tộc là cội rễ bền vững của tâm hồn mỗi con người, không lớn lên và bám chắc vào cội rễ đó, mỗi con người chỉ còn là một cá nhân lạc loài giữa cộng đồng của mình. Đánh mất bản sắc riêng trong nến văn hoá của minh là đánh mất quá khứ, mất lịch sử, mất cội nguồn, sẽ bị hòa tan trong những nền văn hoá khác trong điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng như hiện nay. Do vậy, việc tìm hiểu, giữ gìn những giá trị nhân văn trong văn hoá truyền thống chính là quá trình nhận chân những giá trị của dân tộc Việt nhằm giúp chúng ta tự tin hơn về những gì mình đá có, đang có và tiếp tục phát huy nó trong cuộc sống hiện tại. 

 

Câu 2.    Bài làm

     Xuân Diệu, một nhà thơ, nhà bình luận tinh tế, đã viết về bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương, nhưng chủ yếu nghiêng về khía cạnh xã hội học: “Chú trẻ, chú không thực tình, chỉ có ý quanh quẩn chim chuột, bất hiếu, người tẻ nhạt” được Xuân Hương mời trầu cau mà thật hay trớ trêu… Chàng trai lần sau lại đến, lần này Xuân Hương lại đến dùng trầu rõ hơn, để tiễn khách đi xa trong lúc “miếng trầu là đầu câu chuyện”.

“Trầu nhỏ bằng miếng trầu,

Đây là bút lông mới của Xuân Hương.

Có thể cho nhau nhen nhóm,

Đừng xanh như lá bạc như vôi

Nhưng vấn đề không chỉ có vậy. Đi sâu khảo sát các từ ngữ, tín hiệu ngữ nghĩa của từng dòng thơ, dường như bài thơ tứ tuyệt ngắn mở ra nhiều phương diện nghệ thuật sâu sắc phù hợp với phong cách tư duy thơ Hồ Xuân Hương.

Ngay ở câu thơ mở đầu, đối tượng thao tác không được nữ sĩ miêu tả ở vẻ đẹp toàn diện, cũng không phải vẻ đẹp tầm thường mà căn bản là ở một khía cạnh dị thường, khác thường. Ở đây, cau phải “nhỏ, trầu phải “mùi”, điều này có sự tương ứng chặt chẽ với quan niệm về cái đẹp và hình thức tư tưởng nghệ thuật trong hầu hết các tác phẩm của Hồ Xuân Hương.

Người nữ sĩ thường đồng cảm với những đồ vật tầm thường, vụn vặt như con ốc, cái quạt, quả mít “xù xì”, cái trống “đục lỗ”, chiếc bánh trôi “bảy ba” chìm, đồng xu “nhỏ”; thậm chí những hình ảnh thiên nhiên thô thiển, méo mó, dị hợm, dị thường đến cùng cực, với những hòn đá “chồng vợ”, vầng trăng “mõm chín”. Đó là cách hình dung thế giới theo cách của Hồ Xuân Hương, sự liên tưởng phù hợp giữa nỗi mặc cảm tự ti về con người nhỏ bé trong chủ đề sáng tạo và đối tượng được miêu tả.

Ngay câu thơ thứ hai cũng thể hiện rất rõ phong cách thơ Bà Chúa của thơ Nôm, ở đây, “đỏ đỏ”… Nhìn chung, đó là cách hình dung thế giới theo kiểu Hồ Xuân Hương, liên tưởng phù hợp . giữa mặc cảm trong chủ thể sáng tạo và đối tượng miêu tả.

Ngay câu thơ thứ hai cũng thể hiện rõ phong cách thơ Nôm của bà chúa thơ, ở đây, chỉ từ “này” đi với đại từ sở hữu “của” vừa có nghĩa là chỉ cau, trầu cau, vừa có nghĩa là chỉ về một cái gì đó, một cái gì đó “của” Xuân Hương. Hơn nữa, “này của Xuân Hương” còn có nghĩa chuyển, chỉ trầu cau trong câu trên và nối với động từ “bò”. Ý thơ ở đây khá mơ hồ: “trầu cau – này” và “này – cọ” (vôi hay có thể cọ gì đó!). Cách nói um sùm, thanh – thô, thô tục – thanh này rất thường gặp trong thơ Hồ Xuân Hương.

Hai câu thơ còn lại vừa mở ra dòng cảm xúc trữ tình tuy khác biệt nhưng thực chất lại nương tựa và hoàn toàn liên hệ với nhau. Câu thơ “Còn tình thì ngã ngửa” là một lời “mời gọi, khao khát” cho một cuộc tình viên mãn; còn câu kết “Đừng xanh như lá, bạc như vôi” là giọng cảnh cáo, cảnh cáo, thêm ý khinh thường: loại người “xanh như lá, bạc như vôi”.

Điều sâu sắc và tế nhị hơn, khi nói về “mối nhân duyên” nhà thơ đã nói hết cái lí, nói đến cái kết viên mãn “đậm đà”; nhưng ở câu thơ sau, nhà thơ chỉ nêu hiện tượng, chỉ đưa ra lời khuyên: “Đừng…”, mà không có tâm, không muốn nói đến tận cùng nhân quả như thế nào. đoạn thơ trên. Lời cảnh báo xa vời, kể ra cũng thật tình cảm, nhân ái.

Còn một điều nữa – và đây là chìa khóa để hiểu toàn bộ bài thơ – là mối liên hệ logic sâu sắc giữa hai dòng sau và ý chính của câu thơ mở đầu. Dường như trong sâu thẳm của khối óc sáng tạo, một nỗi niềm xót xa về thân phận con người nhỏ bé đồng hành với tiếng cầu nguyện, khao khát hạnh phúc.

Trên nền thể thơ truyền thống và bút pháp tượng trưng, ​​bài thơ “Mời trầu” không những phải gắn với một ý nghĩa phê phán cụ thể (nếu có) mà quan trọng hơn là tiếng nói sâu thẳm của trái tim. sâu lắng, khao khát hạnh phúc, khao khát được giao cảm với cuộc đời, khao khát tiếng vọng, hay chiếc xương sườn thứ bảy còn khuyết nơi xa

Câu 1:Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thông tin

Câu 2:Các phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản là:thuyết minh,nghị luận,biểu cảm

Câu 3: Mục đích của tác giả qua bài viết này là:Giới thiệu những thông tin về nguồn gốc của người thổ dân châu Úc.Bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của tác giả về sự khó khăn trong việc tìm hiểu lịch sử của người thổ dân châu Úc.

Câu 4:Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là "hình ảnh". Hình ảnh "Thổ dân châu Úc" .Hình ảnh này có tác dụng:

Gợi sự chú ý và thu hút người đọc.

Làm cho bài viết thêm sinh động và hấp dẫn.

Câu 5:Cách trình bày thông tin và quan điểm của tác giả qua văn bản:

Thông tin được trình bày một cách khoa học, logic, dựa trên những bằng chứng và giả thuyết có cơ sở.Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ chính xác, giàu hình ảnh, tạo sự lôi cuốn cho người đọc.

Quan điểm của tác giả được thể hiện một cách khách quan, không thiên vị, đồng thời thể hiện sự trân trọng và tiếc nuối đối với văn hóa của người thổ dân châu Úc.

Nói chung cách trình bày thông tin và quan điểm của tác giả qua văn bản là rõ ràng, dễ hiểu, thu hút người đọc và tạo được sự đồng cảm.