➻❥Đinh Trịnh Bảo Anh♉ 🖤 — ᆺ — 🖤@

Giới thiệu về bản thân

Xin chào các bạn, rất vui khi được làm quen. Tui fan hiha nha, các bạn fan ai zậy?
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Vua Lý Thái Tổ (Lý Công uẩn) 

Lý Công Uẩn người làng cổ Pháp thuộc Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay ở làng Đình Bảng vẫn còn có lăng và đền thờ các vua nhà Lý. 

Tục truyền rằng Công uẩn không có cha; mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn (làng Tiên Sơn, phủ Từ Sơn) , đêm về nằm mộng thấy "đi lại" với thần nhân, rồi có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi, đứa bé càng khôi ngô tuấn tú; gia đình đem cho nhà sư ở chùa cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi. Lý Công uẩn được học hành chữ Nho, kinh Phật và võ nghệ từ nhỏ, lớn lên dưới mái chùa, trở thành một tài trai văn võ siêu quần. 

Ngoài 20 tuổi, Lý Công uẩn đã làm võ tướng dưới triều vua Lê Đại Hành, từng lập công to trong trận Chi Lăng (981) đại phá quân Tống xâm lược, chém đầu tướng giặc Hầu Nhân Bảo. Về sau, ông giữ chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, nắm trong tay toàn bộ binh quyền. Đức trọng tài cao, ông được quần thần và tướng sĩ rất kính phục. Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà. Ngôi vua được truyền cho Lê Long Việt. Chỉ 3 ngày sau, Lê Long Đĩnh giết anh, giành lấy ngai vàng. Lê Long Đĩnh là một tên vua vô cùng bạo ngược khác nào Kiệt, Trụ ngày xưa. Hắn hoang dâm vô độ, nên mắc bệnh không ngồi được; đến buổi chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Vua Ngọa Triều. Cuối năm 1009, Lê Ngọa Triều chết. Năm đó, Lý Công uẩn đã 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm rồi; quân thần và tầng lớp tăng lữ suy tôn ông lên ngôi báu, mở đầu triều đại nhà Lý (1010- 1225). 

Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vào đầu xuân 1010, tức là vua Lý Thái Tổ nhà Lý. Nhà vua trị vì được 19 năm, thọ 55 tuổi, băng hà năm 1028. 

rả lời: Những con vật đến thăm bờ tre là: cò bạch, bồ nông, bói cá, chim cu, ếch.

Thế Lữ là một trong các cây bút tiên phong, mở đường cho thơ ca hiện đại Việt Nam phát triển. Có thể nói ông là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho thơ mới, dựng lên nền thơ mới cho thi ca dân tộc ở ngay chặng đầu (1930-1935). Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế, đất nước nhưng không bế tắc, u buồn mà là tiếng thơ tha thiết, bi tráng. "Nhớ rừng" là một trong những bài thơ được sáng tác theo bút pháp lãng mạn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Thi phẩm được sáng tác năm 1934, in trong tập "Mấy vần thơ" (1935), tác giả đã mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước. Bộc lộ niềm khát vọng được khẳng định cái tôi của chính mình và được phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, đất nước tự do. Đó cũng là lời tâm sự chung của những chàng thanh niên trí thức sống trong hoàn cảnh mất nước thời kì đó.

    Trước hết, với bài thơ "Nhớ rừng", Thế Lữ đã xây dựng thành công hình tượng con hổ bị sa cơ lỡ vận, mang vẻ đẹp của người anh hùng chiến bại. Đoạn thơ mở đầu là nỗi đau bi kịch của con hổ ngay trong thì hiện tại:

   Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt

   Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua

   Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ

   Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

   Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

   Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi

   Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi

   Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.Nỗi căm hờn là nỗi đau đớn, uất ức, căm phẫn vốn vô hình nhưng qua động từ "gậm" đã trở nên có hình có khối, như có thể nhìn thấy cụ thể. Nỗi căm hờn ấy không chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc mà nó luôn âm ỉ, kế đọng từ rất lâu rồi. Đó là nỗi căm hờn của sự cầm tù "trong cũi sắt" đến mất quyền tự do, chỉ biết "nằm dài" ngao ngắn, tuyệt vọng nhìn ngày tháng trôi qua dần dần mà bất lực. Nỗi đau bi kịch đó của chúa sơn lâm càng được đẩy lên cao trào hơn khi phải sống chung với "bọn gấu dở hơi" và trở thành một món đồ chơi lạ mắt cho "lũ người ngạo mạn". Hiện tại là thế: sa cơ, tù hãm, bất lực nhưng hổ chẳng bao giờ quên được những năm tháng của thuở trời đất dọc ngang, ngang dọc tung hoành bốn bể năm nào:

   Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

   Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

   Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

   Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

   Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

   Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,

   Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

   Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc

   Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

   Là khiến cho mọi vật đều im hơi

   Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

   Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

   Nỗi nhớ đã khơi nguồn cho những cảnh núi rừng bí ẩn lần lượt hiện ra thật tráng lệ, hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình, nên thơ. Đó là cảnh "bóng cả cây ngà", "tiếng gió gào ngàn", "giọng nguồn hét núi". Chúa sơn lâm cứ say sưa nhớ lại những kỉ niệm rực lửa, huy hoàng, tự hào và kiêu hãnh khi ấy. Những động từ miêu tả động tác như "bước, vờn, lượn, quắc" kết hợp với hệ thống những từ láy giàu tính chất tạo hình "nhịp nhàng, dõng dạc, âm thầm" đã tạo nên một vị chúa tể rừng xanh vừa mềm mại, uyển chuyển, vừa tự tin, đàng hoàng, lại vừa oai phong lẫm liệt, dũng mãnh phi thường. Và thời gian đó là những ngày tháng đẹp nhất:

   Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

   Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

   Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

   Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

   Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

   Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

   Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

   Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

   Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

   -Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

   Nỗi nhớ cồn cào da diết cứ dẫn dắt mãnh hổ trở về với quá khứ xa xăm của một thời vang bóng, đó là những đêm trăng vàng bên bờ suối tận hưởng, thả hồn uống ánh trăng đêm; những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, lặng lẽ ngắm mưa rừng dữ dội; những ngày yên bình, thanh thản trong ánh nắng bình minh ngập tràn sắc nắng hay là lúc hả hê, vui thích trong những chiếm lợi phẩm và đợi mặt trời lặn xuống để làm chủ đêm đen. Nghệ thuật điệp cấu trúc (điệp ngữ) kết hợp với câu hỏi tu từ đã xen vừa diễn tả dòng hồi tưởng miên man không dứt; lại vừa thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, xen lẫn niềm tiếc nuối xót xa về những ngày tháng được tung hoành, tự do. Vì thế, câu thơ cuối đoạn cất lên như một tiếng thở dài ngao ngán, tuyệt vọng:

   "-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?"

    Trở về với thực tại tầm thường, giả dối, nỗi chán ngắn, sự khinh bỉ của "chúa tể muôn loài" đã tăng lên đến cao độ. Đó toàn là những khung cảnh giả dối, tầm thường:

   Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

   Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

   Len dưới nách những mô gò thấp kém;

   Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,

   Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

   Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

   Vì thế, đoạn thơ cuối là lời nhắn gửi bi tráng của con hổ với chốn nước non hùng vĩ. Một mặt thể hiện niềm xót xa về quá khứ; một mặt khẳng định tâm thế cường tráng, mạnh mẽ của mãnh hổ không gì có thể khuất phục được, ngay cả khi đã bị giam cầm trong cũi sắt:

   Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!

   Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị

   Nơi thênh thanh ta vùng vẫy ngày xưa

   Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

   Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

   Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn.

   Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

   -Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

    Xét về hình thức nghệ thuật của bài thơ "Nhớ rừng", cái "mới" của thi phẩm trước hết được thể hiện qua thể thơ tám chữ, gieo vần liền (hai câu liền nhau có vần với nhau), vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp, đều đặn. Kế thừa thể hát nói truyền thống nhưng "Nhớ rừng" với thể tám chữ đã được dùng linh hoạt, tự do hơn về cách ngắt nhịp, phá bỏ hoàn toàn những qui định niêm luật vận đối cứng nhắc (khi ngắn, khi dài, khi anh, khi chậm...). Ngoài ra ngôn ngữ hình ảnh thơ không còn mang tính ước lệ nữa, thay vào đó rất sinh động, sáng tạo, giàu tính chất trữ tình, biểu cảm. Bên cạnh đó, bài thơ còn sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, liệt kê, câu hỏi tu từ... Tất cả điều đó đã tạo nên tính nhạc điệu và chất họa cho bài thơ.

    Xét về nội dung, bài thơ "Nhớ rừng" đã mượn lời con hổ ở vườn bách thảo để thể hiện kín đáo tâm sự con người thời kì đó. Bài thơ có lời đề từ là "Lời con hổ ở vườn bách thú"những đó thực chất là lời tâm sự, khát vọng tự do mạnh mẽ của thế hệ thanh niên sống trong hoàn cảnh mất nước. Đó là "niềm uất hận ngàn thâu" đối với hiện thực xã hội tù túng, ngột ngạt – một hiện thức khiến con người thấy chán ghét, muốn từ bỏ, thoát ly. Đi liền với sự chối bỏ là niềm khát khao mạnh mẽ được đổi thay, được khẳng định giá trị bản thân mình trong một xã hội bình yên, phẳng lặng. Vì thế, bài thơ không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng con hổ bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của mình mà còn gửi gắm trong đó sự lên tiếng của cá nhân, đòi giải phóng cái tôi người nghệ sĩ và mong ước đất nước được hòa bình, tự do, thoát khỏi cảnh nô lệ, ngục tù. Cho nên, có thể nói, bài thơ đã bộc lộ kín đáo, thấm thía tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Thế Lữ.

   Tóm lại, qua bài thơ "Nhớ rừng", chúng ta thấy được sức sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Thế Lữ, góp phần khẳng định chỗ đứng vững chắc và sự toàn thắng của thơ mới trên văn đàn, đánh dấu một bước ngoặt lớn của thi ca Việt Nam đương đại. Bài thơ đã dựng lên thành công hình tượng chúa sơn lâm thật đẹp, thật bi tráng mang nỗi niềm tâm sự của con người. Vướt thoát khuôn khổ câu chữ trong thơ, bài thơ đã thể hiện sâu sắc thấm thía tình yêu quê hương đất nước của lớp thanh niên đương thời.

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Khí cacbônic là chất thải của hệ hô hấp.

Từ ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên, chúng ta có thể rút ra bài học về tinh thần đoàn kết, sáng tạo, kiên nhẫn và khai thác lợi thế địa phương trong việc vượt qua những thách thức hiện nay và đạt được thành công bền vững cho quốc gia của chúng ta.

- Các dòng biển chảy thành dòng và có nhiệt độ cao hơn (dòng biển nóng) hoặc thấp hơn (dòng biển lạnh) nước của vùng biển mà nó chảy qua. + Ở những nơi có dòng biển nóng đi qua thì nước biển dễ bay hơi (do nhiệt độ nước biển cao) tạo thành mây và gây mưa cho những khu vực gần đó ⟶ khí hậu ẩm ướt, nhiều mưa.

Tỉ số của 2 và 15 là thương của phép chia 2 cho 15, kí hiệu là 2 : 15 hoặc 215.

Câu chuyện về con lừa già tự nghĩ cách thoát khỏi giếng sâu để cứu bản thân trong khi bị ông chủ “bỏ rơi” là một câu chuyện ý nghĩa, rút ra được những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống cho mỗi người. Trong chuyện, con lừa già đã rũ bỏ lớp bùn đất và bước lên chúng để thoát khỏi giếng sâu trong sự kinh ngạc của ông chủ. Trong cuộc sống cũng vậy, mọi người trong xã hội có thể chà đạp lên bạn, khiến bạn rơi xuống “vực thẳm” nhưng những lúc khó khăn đó, đừng từ bỏ, đừng trông chờ vào sự giúp đỡ từ bất cứ ai, chính bạn hãy trút bỏ những “bùn đất” mà tiếp tục bước lên tự cứu chính bản thân mình. Khi bị rơi vào nghịch cảnh, đừng bỏ cuộc hãy bình tĩnh để tự cứu chính mình.

Phan Đình Giót sinh năm 1922, quê ở thôn Vĩnh Yên, xã Tam Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình Giót rất nghèo. Giót phải sống cuộc đời đi ở, làm thuê từ năm 13 tuổi.

Trong truyện ngắn "Vết nứt và con kiến" của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, nhân vật kiến được mô tả đầy sắc bén và ý nghĩa. Kiến trong truyện không chỉ là một sinh vật nhỏ bé mà còn mang trong mình những đặc điểm tượng trưng cho sự kiên trì, sáng tạo và lòng nhân hậu.

Đầu tiên, kiến được miêu tả là một sinh vật nhỏ bé nhưng rất kiên trì và sáng tạo trong việc tìm kiếm lối ra khỏi vết nứt. Dù phải đối diện với nhiều khó khăn và thách thức, kiến không bao giờ từ bỏ và luôn tìm cách vượt qua để đạt được mục tiêu của mình. Điều này thể hiện sự bền bỉ và quyết tâm của nhân vật kiến.

Ngoài ra, kiến cũng được mô tả là một sinh vật rất nhân hậu và chia sẻ. Truyện nhấn mạnh vào việc kiến không chỉ tìm lối thoát cho bản thân mà còn giúp đỡ các sinh vật khác trong vết nứt. Hành động này thể hiện lòng nhân ái và sự quan tâm đến cộng đồng của nhân vật kiến.

Tóm lại, nhân vật kiến trong truyện "Vết nứt và con kiến" không chỉ là một sinh vật nhỏ bé mà còn là biểu tượng của sự kiên trì, sáng tạo và lòng nhân hậu. Nhờ vào những đặc điểm này, kiến đã trở thành một nhân vật đầy ý nghĩa và góp phần làm nổi bật thông điệp của câu chuyện về tinh thần lạc quan và sức mạnh của sự đoàn kết.