anhathucnguyen

Giới thiệu về bản thân

Mình rất thích mê anime
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Thảo Phương ơi!Cậu nói chuyện riêng với mình ở trên nhóm này nhé!Được ko?Mình chỉ trao đổi một số vấn đề về việc hôm trước mình gửi lời mờ kết bạn đến với cậu mà cậu ko hề trả lời mình một câu nào.Thật là thất vọng về cậu!

Đây nhé bạn!

Tham khảo:

Nguyễn Ngọc Ký quả là một tấm gương sáng ngời về nghị lực vượt lên số phận. Ông đã chứng minh cho mọi người thấy một người tật nguyền như ông vẫn có thể trở thành người có ích cho xã hội. Tên tuổi Nguyễn Ngọc Ký đã được mọi người biết đến với lòng trân trọng, ngưỡng mộ, cảm phục. Mãi mãi, cái tên Nguyễn Ngọc Ký sẽ còn in sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam hôm nay và cả mai sau.

   Những tấm gương về vượt khó học tập chưa bao giờ là thiếu trên cả nước. Và câu chuyện về người thầy Nguyễn Ngọc Ký chính là một điểm sáng hy vọng trong những điều tối tăm ấy.

   Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ngày 28/6/1947 tại xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu, Nam Định. Mọi thứ chỉ thật sự tràn đầy hi vọng khi những năm đầu đời Nguyễn Ngọc Ký là một đứa trẻ khỏe mạnh. Thế nhưng khi lên bốn, một cơn bạo bệnh bất ngờ, đã cướp đi cả hai bàn tay của ông, kết quả là ông bị liệt cả hai tay mãi mãi không cầm được bút nữa và tất nhiên coi như việt học hành sẽ chấm dứt từ đây.

   Sau ngày hôm đó, Nguyễn Ngọc Ký hết sức đau buồn. Thế nhưng nhận ra để thay đổi cuộc sống tồi tệ này không còn cách nào khác là phải học tập. Và sau ngày hôm đó, quyết không đầu hàng số phận Nguyễn Ngọc Ký đã luyện viết bằng bàn chân của chính mình.

   Lúc đầu thầy tâm sự, viết bằng chân là một chuyện rất khó khăn, vất vả nhiều khi tức tưởi vì không cầm vững được cây viết đã muốn buông xuôi tất cả. Dần dần bình tâm lại đã viết được chữ O, Chữ A và sau đó còn vẽ được thước, xoay được compa, làm được lồng chim và những thứ đồ chơi để chơi.

   Sau đó quay trở lại học hành và học rất giỏi. Năm 1962, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng huy hiệu. Năm 1963, khi đang học lớp 7, ông tham dự kỳ thi sinh giỏi Toán toàn quốc và đứng thứ 5, được Hồ Chủ tịch tặng huy hiệu lần thứ hai và cùng đạt được nhiều giải thưởng toán học. Ông xuất sắc tốt nghiệp ngành Ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội, rồi trở về quê nhà làm thầy giáo. Năm 1994, ông chuyển từ Nam Định vào Thành phố Hồ Chí Minh định cư, làm việc tại Phòng Giáo dục quận Gò Vấp để vừa công tác vừa chữa bệnh.

Mỗi quốc gia, dân tộc lại có một nền văn hóa ẩm thực khác nhau. Người ta biết đến sushi Nhật Bản, kim chi Hàn Quốc và bạn bè quốc tế đều biết đến phở Việt Nam. Phở không những là món ăn dân tộc mà còn là văn hóa ẩm thực Việt trên trường quốc tế.

Không có tư liệu chính xác nào về nguồn gốc của phở. Nhiều người cho rằng phở định hình vào đầu thế kỉ 20. Có quan điểm cho rằng phở vốn bắt nguồn từ món xáo trâu (dạng sợi bún) Việt Nam. Có quan điểm khác lại cho biết phở bắt nguồn từ một món ăn Quảng Đông hoặc nguồn gốc của phở là phương pháp chế biến món thịt bò hầm của Pháp. Dù không rõ phở có nguồn gốc chính xác từ đâu nhưng vào những năm 40 của thế kỉ 20, phở đã rất nổi tiếng ở Nam Định, Hà Nội.

Phở mang nhiều hương vị khác nhau tùy tay người chế biến. Nhưng thành phần chính của phở gồm bánh phở và nước dùng. Bánh phở dạng sợi, thường chế biến từ gạo. Nước dùng có mùi thơm từ gừng, quế, hồi và thảo quả nướng kết hợp với vị ngọt từ xương lợn được ninh nhừ, thịt bò hoặc thịt gà được thái mỏng và trần vào bát phở cùng với các loại rau thơm.

Pause 00:00 00:28 01:31 Mute

Nước dùng là yếu tố quyết định độ ngon của một bát phở, nên khâu chuẩn bị chế biến nước dùng cần đảm bảo kỹ lưỡng. Từ việc chọn xương sao cho ngọt ngon nhất đến ninh xương, nêm nếm gia vị. Vị ngọt của nước dùng phải từ xương thì mới ngon. Nước dùng còn phải có mùi thơm và màu trong. Những yêu cầu này đòi hỏi người đầu bếp phải có kinh nghiệm. Ngoài ra khi ăn phở, người ta hay ăn kèm rau thơm, thêm vị chua thanh thanh từ chanh. Tất cả cùng hòa quyện khiến bát phở thơm ngon đúng điệu không sai lệch đi một chút nào.

Qua nhiều giai đoạn phát triển của phở và sự sáng tạo của người đầu bếp từ thế hệ đi trước đến thế hệ sau, phở có nhiều loại hơn tương ứng cách chế biến của nó. Tuy nhiên có ba món phở chính là: phở nước, phở xào và phở áp chảo. Phở nước là loại được ưa chuộng hơn cả. Phở nước gồm phở bò, phở gà, phở tim gan. Khác nhau như vậy sở dĩ là do nước dùng cùng thịt ăn kèm.

Trong số đó, nổi tiếng nhất là phở bò. Phở được trình bày trong bát sứ với độ lớn vừa phải. Khi ăn phở, phải kết hợp dùng cả đũa và thìa để thưởng thức được trọn vẹn hương vị của một bát phở. Ăn phở phải ăn nóng và không ăn kèm thêm bất cứ món ăn, đồ uống nào khác bởi hương vị của nó vốn đã rất đầy đủ, hoàn hảo rồi.

Phở đã trở thành nét tinh tế trong văn hóa ấm thực dân tộc. Bốn mùa xuân hạ thu đông, cả ngày sáng trưa chiều tối, bất cứ khi nào muốn chúng ta đều có thể thưởng thức phở. Trên khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu, quán ăn nào cũng phục vụ phở. Có những quán phở đã thành danh từ năm này qua năm khác, có những nơi đã trở thành làng nghề. Phở là một phần không thể thiếu trong tâm hồn mỗi người con Việt Nam, để rồi khi xa quê hương, ở nước ngoài người ta vẫn khao khát được ăn một bát phở Việt Nam đúng nghĩa.

Bạn bè trên thế giới đến với Việt Nam, ai cũng một lần thử qua món phở và thích thú mùi vị của nó. Thậm chí, có nhiều người lặn lội từ vì lẽ đó đã gắn liền với đất nước và con người Việt Nam. Nếu hỏi một người nước ngoài rằng họ biết gì về Việt Nam, chắc chắn sẽ không có câu trả lời nào khác ngoài phở. Phở còn trở thành đề tài cho bao tác phẩm đồ sộ của các tác giả như Thạch Lam, Vũ Bằng… Cùng với tình yêu quê hương, ngày qua ngày, người ta luôn cố gắng giữ gìn nét ẩm thực độc đáo của đất nước mình.

Bao thế hệ đã đi qua, nhưng phở vẫn còn mãi dưới đôi tay khéo léo của người đầu bếp. Bát phở nghi ngút khói trong cái se se lạnh của đất nước nhiệt đới ẩm đã lặng lẽ khắc ghi trong trái tim con người Việt Nam niềm tự hào dân tộc.


à này bạn ơi,bạn giúp mình làm bài này với!Chủ đề của bài này là:"em hãy thuyết minh về nguồn gốc,lịch sử hình thành của món phở "Bạn phải nhớ là môn này của giáo dục địa phương nhé!

Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt có một vị thần tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng lên sống trên cạn, sức khoẻ vô địch, có nhiều phép lạ. Bấy giờ, ở vùng núi cao có nàng Âu Cơ xinh đẹp tuyệt trần, nghe vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ bèn tìm đến thăm. Hai người gặp nhau, kết thành vợ chồng. Ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Đến kì sinh, chuyện thật lạ, nàng sinh ra cái bọc trăm trứng. Trăm trứng nở ra một trăm người con hồng hào, đẹp đẽ lạ thường. Đàn con lớn nhanh như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần. Sống với nhau được ít lâu, Lạc Long Quân bàn với vợ: – Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn, người dưới nước, tập quán khác nhau, khó mà ở cùng nhau lâu dài được. Nay ta đem năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương, khi có việc thì giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn. Một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ sau này trở thành tổ tiên của người Việt. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Con trai vua gọi là Lang, con gái vua gọi là Mị Nương; khi cha mất thì ngôi được truyền cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi vua đều lấy hiệu là Hùng Vương, không hề thay đổi. Cũng bởi sự tích này mà về sau, người Việt ta thường tự hào xưng là con Rồng cháu Tiên và thân mật gọi nhau là đồng bào.

Cảm ơn các bạn nhìu!Hay quá mình đang cần bài ấy phương thảo à!

Đây nhé!

Lạc Long Quân, là con trai của thần Long Nữ sống ở biển Đông. Ông là người có sức khỏe lạ thường và có nhiều phép thuật, Ông là người có đức độ, thần thường lên cạn để giúp dân diệt trừ yêu quái như Hồ Tinh, Mộc Tinh, Ngư Tinh... Thần còn dạy cách trồng trọt để xây dựng cuộc sống. Nhờ có thần mà con người có cuộc sống an bình. Cùng thời điểm ấy có một nàng Tiên nữ tên là Âu Cơ, con của vị Thần Nông cai quản mặt đất cũng xuất hiện. Nàng là người xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn. Rồi một ngày Âu Cơ và Lạc Long Quân đã tình cờ gặp nhau. Với tình yêu mãnh liệt của tuổi trẻ, bất chấp những khác biệt của hoàn cảnh, họ đem lòng yêu mến rồi kết duyên. Hai người đã nhanh chóng nên vợ thành chồng và cùng nhau sinh sống ở cung điện Long Trang. Rồi niềm vui cũng nhanh chóng đến với hai người, Âu Cơ đã mang thai. Đến kỳ sinh nở, một điều kì lạ đã xảy ra, nàng sinh ra một cái bọc có trăm trứng. Rồi một điều còn lạ hơn nữa, từ trăm trứng trong bọc ấy nở thành trăm người con xinh đẹp và khỏe mạnh, chẳng cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi. Mọi người rất đỗi vui mừng. Cung điện Long Trang thật yên bình, vui vẻ. Gia đình họ rất hạnh phúc, ấm êm. Đang sống yên ổn một thời gian, Lạc Long Quân thấy nhớ quê nhà, nhớ mẹ già. Lúc nào cũng mong muốn được trở lại Thủy cung. Thần tạm biệt gia đình trở về với biển, về thăm mẹ và trị yêu quái chốn thủy cung. Âu Cơ sống trong sự chờ đợi, vò võ nuôi con suốt mấy năm liền. Thời gian thấm thoát trôi nhanh, các con đã lớn nhưng nỗi nhớ chồng vẫn vò võ không nguôi, nàng ra biển gọi chồng. Nghe tiếng gọi của vợ, Lạc Long Quân lên cạn và cho gọi các con lại phân giải rằng: - Ta và mẹ các con người nòi Rồng, kẻ dòng Tiên, phong tục tập quán khác nhau, môi trường sống khác nhau nên không ăn ở với nhau ở một nơi lâu dài được. Giờ ta đưa năm mươi con xuống biển, các con còn lại sẽ theo mẹ lên non, chia nhau cai quản các phương. Tuy xa nhau nhưng vẫn thắm tình, đượm nghĩa. Khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau. Âu Cơ đã hiểu được sự tình, nên cũng đành chấp nhận cảnh chia ly.Các con của họ tuy không muốn vậy nhưng hiểu được hoàn cảnh, họ cũng vâng lời. Cả gia đình bịn rịn chia tay nhau, kẻ theo cha xuống biển, người theo mẹ lên non trong tâm trạng bùi ngùi xúc động. Một thời gian không lâu sau đó, người con trưởng theo nàng Âu Cơ đã xây dựng đất nước đứng lên làm vua, và đặt tên nước là Văn Lang đóng đô ở đất Phong Châu. Đất nước rất hung mạnh, nhân dân no đủ. Triều đình của vị vua đầu tiên đã có tướng văn, tướng võ. Ngay từ thời đó, luật nhà vua đã có quy định, khi vua cha chết thì ngôi được truyền cho con trai trưởng. Kể từ thời điểm đó, con cháu của nàng Âu Cơ đã truyền 18 đời. Các đời vua ấy lấy hiệu là Hùng Vương. Câu chuyện trên đã nhắc nhở chúng là về nguồn gốc của mình. Mỗi người dân Việt Nam đều có chung là mẹ Âu Cơ và cha là Lạc Long Quân, vì vậy chúng ta phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đã là anh em con cháu Rồng Tiên chúng ta phải biết đoàn kết để tạo nên sức mạnh chống lại kẻ thù, chúng ta phải đùm bọc chia sẻ với những người gặp khó khăn hoạn nạn, cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Câu truyện không chỉ có ý nghĩa giải thích nguồn gốc của người dân Việt Nam, mà còn là lời nhắc nhở đối với mỗi người dân về trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước của mình, chúng ta phải thực hiện bổn phận của những người con với cha mẹ, của anh em đối với nhau, vì tất cả chúng ta cùng có một cha mẹ.