(0,5 điểm) Bạc dạng bột có lẫn tạp chất là đồng và nhôm. Em hãy đề xuất cách tinh chế bột bạc tinh khiết bằng phương pháp hóa học. Giải thích bằng phương trình hóa học.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Đề thi đánh giá năng lực

Câu 1 ; trong cuộc sống này chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng ta biết yêu thương vạn vật . Yêu thương vạn vật là yêu những điều nhỏ nhặt bên cạnh chính mình , ta không nên vì nó nhỏ bé mà ghét bỏ nó cũng không nên vì nó to lớn mà sợ hãi nó . Yêu thương vạn vật sẽ dạy cho ta trân trong những gì ta có từ đó chân trọng cuộc sống này giống như hoa hậu nguyễn thúc thùy tiên một người thành công khi còn rất trẻ ở cô chúng ta học được một trong những yếu tố thành công chính là lòng yêu thương từ những điều nhỏ nhất
câu 2 Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:
Chỉ bằng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chữ “Có nhớ” đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh “khuôn mặt búp sen” gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh “cô hàng xén ràng đen”, đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng mùa thu chứ không phải cái nắng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng Cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy “còm cõi” đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ “dăm”, “vài” là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ “hoen” được sử dụng rất hay, “hoen” không chỉ là sương thấm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác của kẻ thù:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Tác giả gọi kẻ thù là “lũ quỷ mắt xanh” – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy “trừng trợn” không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm của kẻ thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ “chợt” chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao “khua” “đạp”, “xì xồ”, “tan”, “gầy teo” diễn tả những hành động dã man liên tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vét máu loang chiều mùa đông
Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, loang được sử dụng rất đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đan...

1 PTBT Chính đc sử dụng trong bài thơ là biểu cảm kết hợp với tự sự
2 thất ngôn tứ tuyết
3 là tương phản
4. là cơ hội để rèn luyện,thử thách bản thân
5 Khó khăn,thử thách là một phần tất yếu của cuộc sống và là cơ hội đề con người trưởng thành và mạnh mẽ hơn

Câu 1
Bài thơ "Ca sợi chỉ" của Hồ Chí Minh mượn hình ảnh sợi chỉ để gửi gắm thông điệp sâu sắc về sức mạnh của tinh thần đoàn kết dân tộc. Ban đầu, sợi chỉ tượng trưng cho mỗi cá nhân yếu ớt, nhỏ bé, “ai vò cũng đứt, ai rung cũng rời”. Nhưng khi các sợi chỉ “họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều”, chúng dệt nên tấm vải “bền hơn lụa, lại điều hơn da” đó là hình ảnh ẩn dụ cho một tập thể vững chắc khi biết gắn bó, đoàn kết. Hồ Chí Minh sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, để làm nổi bật sự chuyển hóa từ yếu ớt đến mạnh mẽ của sợi chỉ, đồng thời nhấn mạnh vai trò của đoàn kết trong công cuộc kháng chiến. Lời thơ mộc mạc, gần gũi nhưng đầy sức gợi, kết thúc bằng lời kêu gọi chân thành “Việt Minh hội ấy mau mau phải vào” như một lời nhắn gửi thiết tha tới toàn dân. Qua đó, bài thơ không chỉ mang giá trị nghệ thuật mà còn là bài học sâu sắc về tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng
Câu 2
Trong cuộc sống, không ai có thể sống và phát triển một mình. Mỗi người đều là một phần của tập thể, cộng đồng. Vì thế, đoàn kết , gắn bó, hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau luôn là yếu tố quan trọng để tạo nên sức mạnh. Ông cha ta đã từng dạy “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao" Câu nói giản dị ấy đã khẳng định vai trò to lớn của sự đoàn kết trong cuộc sống con người
Trước hết, đoàn kết giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Khi mỗi người biết cùng nhau chia sẻ, hỗ trợ, mọi công việc dù khó khăn đến đâu cũng sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Một cá nhân có thể yếu ớt, nhưng khi nhiều người cùng đồng lòng, họ sẽ tạo nên một sức mạnh vững chắc. Cũng như những sợi chỉ nhỏ bé, khi kết lại với nhau sẽ dệt nên tấm vải bền đẹp, con người khi gắn bó sẽ tạo nên một tập thể mạnh mẽ
Trong lịch sử dân tộc, tinh thần đoàn kết đã trở thành truyền thống quý báu giúp nhân dân ta chiến thắng mọi kẻ thù. Từ thời Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt đến các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, toàn dân đã cùng nhau đứng lên bảo vệ đất nước. Sự gắn bó, đồng lòng của nhân dân từ miền xuôi đến miền ngược, từ già đến trẻ đã tạo nên sức mạnh vô địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta"
Không chỉ trong chiến tranh, đoàn kết còn rất quan trọng trong học tập và làm việc. Một lớp học chỉ có thể tiến bộ khi các bạn biết giúp đỡ nhau cùng học tốt. Một nhóm làm việc chỉ hiệu quả khi các thành viên biết lắng nghe, phối hợp. Gia đình cũng chỉ hạnh phúc khi mọi người biết yêu thương, nhường nhịn. Như vậy, đoàn kết chính là chìa khóa để xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp và xã hội văn minh
Ngược lại, nếu thiếu đoàn kết, con người dễ rơi vào mâu thuẫn, tranh cãi, thậm chí chia rẽ. Một tập thể không có sự gắn bó sẽ yếu ớt, dễ tan rã. Lợi ích chung bị ảnh hưởng, mục tiêu lớn không thể thực hiện được. Vì vậy, mỗi người cần học cách tôn trọng, lắng nghe và đặt lợi ích tập thể lên trên cá nhân để xây dựng sự đoàn kết vững chắc
Tóm lại, đoàn kết là sức mạnh to lớn giúp con người vượt qua khó khăn, tạo nên những thành tựu lớn lao. để lớp học, trường học phát triển, mỗi học sinh cần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giữ gìn và phát huy tinh thần đoàn kết chính là góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh và tốt đẹp hơn
Câu1:
Bài thơ "Ca sợi chỉ" của tác giả Hồ Chí Minh là một tác phẩm mang nhiều bài học sâu sắc, thể hiện tư tưởng nhân đạo và tinh thần cách mạng của Bác Hồ. Sợi chỉ là một vật nhỏ bé, quen thuộc, giản dị và thiết thực trong đời sống, tác giả Hồ Chí Minh đã gửi gắm những bài học về tinh thần đoàn kết, gắn bó và trách nhiệm trong công việc chung của tập thể. Những câu thơ “ Càng dài lại càng mỏng manh,
Thế gian ai sợ chi anh chỉ xoàng!
Nhờ tôi có nhiều đồng bang,
Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều.
Dệt nên tấm vải mỹ miều,
Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da"
Qua lối miêu tả chiều dài và cách nhìn nhận sợi chỉ từ góc nhìn của người ngoài, tác giả đã lấy hình ảnh sợi chỉ để gợi ra hình ảnh con người, phần nào làm rõ khả năng của một cá nhân khi ở riêng lẻ và khi ở trong tập thể. Nhấn mạnh sức mạnh chung, đồng thời là trách nhiệm của một cá nhân với tập thể. Bài thơ sử dụng thể thơ lục bát quen thuộc, gần gũi, đồng thời là ngôn ngữ mộc mạc giàu sức miêu tả, khiến thông điệp truyền tải trở nên sâu sắc nhưng dễ cảm nhận. 2 câu thơ cuối
"Yêu nhau xin nhớ lời nhau,
Việt Minh hội ấy mau mau phải vào."
Là 1 lời kêu gọi xuyên thời gian, kêu gọi nhân dân trong quá khứ và khơi gợi mãnh liệt tình yêu nước của những người trẻ hiện tại của chủ tịch Hồ Chí Minh. "Ca sợi chỉ" không chỉ là một bài thơ giàu nghệ thuật mà còn là lời nhắn gửi về tinh thần trách nhiệm, đoàn kết và ý nghĩa của sự cống hiến trong cuộc sống.
Câu 2:
Đoàn kết là một trong những phẩm chất quan trọng nhất để xây dựng nên một tập thể vững mạnh và xã hội phát triển. Từ ngàn đời nay, ông cha ta đã khẳng định: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, nhấn mạnh vai trò to lớn của tinh thần đoàn kết trong đời sống con người. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, sự gắn bó, đồng lòng giữa các cá nhân cũng luôn là nền tảng tạo nên thành công.
Đoàn kết không chỉ đơn thuần là việc cùng làm một việc gì đó, mà còn là sự thấu hiểu, cảm thông, sẵn sàng chia sẻ và cùng hướng tới một mục tiêu chung. Khi mọi người biết gạt bỏ lợi ích cá nhân, biết hỗ trợ và nâng đỡ lẫn nhau, thì sức mạnh được tạo ra sẽ lớn hơn rất nhiều so với nỗ lực riêng lẻ. Một tập thể thống nhất sẽ có sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, thử thách mà nếu đi một mình, ta khó có thể vượt qua. Câu chuyện bó đũa vẫn luôn là minh chứng rõ ràng nhất: một chiếc đũa dễ bị bẻ gãy, nhưng cả bó đũa thì lại rất cứng cáp.
Trong lịch sử dân tộc, tinh thần đoàn kết đã làm nên những chiến thắng vẻ vang. Nhờ sự đồng lòng của toàn dân mà chúng ta đã vượt qua những thời kỳ gian khổ, chiến thắng thực dân, đế quốc, giành lại độc lập tự do. Không có sự đoàn kết, sẽ không có một Việt Nam vững mạnh và kiên cường như hôm nay. Trong thời kỳ hiện đại, khi đại dịch COVID-19 lan rộng, tinh thần đoàn kết của người dân cả nước – từ bác sĩ, chiến sĩ, đến những người dân thường đã góp phần kiểm soát dịch bệnh và lan tỏa tình người giữa cuộc sống đầy biến động.
Không chỉ trên bình diện quốc gia, đoàn kết còn cần thiết trong từng môi trường nhỏ hơn như trường lớp, cơ quan, hay chính gia đình. Một lớp học có tinh thần gắn bó, biết hỗ trợ nhau trong học tập sẽ tạo nên môi trường tích cực, thân thiện. Một gia đình đoàn kết là nền tảng để nuôi dưỡng yêu thương, giáo dục con người. Một tập thể làm việc biết cùng hướng về mục tiêu chung sẽ luôn phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn.
Tuy nhiên, xây dựng sự đoàn kết không phải là điều dễ dàng. Nó đòi hỏi mỗi người phải biết tôn trọng người khác, biết lắng nghe, chia sẻ và hy sinh cái tôi cá nhân vì lợi ích chung. Sự đoàn kết thực sự đến từ sự chân thành, trách nhiệm và tinh thần cộng đồng cao.
Đoàn kết là một sức mạnh to lớn, là chiếc cầu nối giữa con người với con người, giữa cá nhân với tập thể. Trong thời đại ngày nay, khi thế giới ngày càng phức tạp và cạnh tranh gay gắt, tinh thần đoàn kết lại càng trở nên cần thiết. Là một người trẻ, chúng ta cần nhận thức rõ vai trò của đoàn kết, và góp phần xây dựng một xã hội yêu thương, gắn bó và vững mạnh hơn

Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài là: Biểu cảm.
Câu 2:
Nhân vật “tôi” trong bài thơ đã trở thành sợi chỉ từ: Cái bông.
Câu 3:
*Biện pháp tu từ có trong đoạn thơ là nhân hóa, sợi chỉ cũng có ý thức, có bạn bè:
Nhờ tôi có nhiều đồng bang,
Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều.
- Tác dụng:
+ Làm câu thơ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
+ Thể hiện rằng khi hợp lại, những sợi chỉ có thể có sức mạnh phi thường.
=> Tình đoàn kết.
*Biện pháp tu từ có trong đoạn thơ là so sánh:
Dệt nên tấm vải mỹ miều,
Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da.
- Tác dụng:
+ Làm câu thơ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
+ Nhấn mạnh vẻ đẹp và sự vững bền của tình đoàn kết.
Câu 4:
- Đặc tính của sợi chỉ: Mỏng manh nhưng dẻo dai, có thể hợp lại với các sợi chỉ khác để tạo nên cái đẹp và sự bền vững.
- Sức mạnh chủ yếu của sợi chỉ nằm ở việc có thể kết hợp với các sợi chỉ khác để tạo nên một mảnh vải đẹp, đó là sức mạnh của sự đoàn kết.
Câu 5:
- Bài học: Sức mạnh của tình đoàn kết tạo ra những thắng lợi vẻ vang.
- Ý nghĩa: Phải biết yêu đồng bào, yêu dân tộc, biết nhường nhịn và cùng nỗ lực để đạt đến thành công.