K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

I. KIỂM TRA ĐỌC HIỂU KẾT HỢP KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu.   Anh đom đóm​       (Trích) Mặt Trời gác núi Bóng tối lan dần, Anh đóm chuyên cần Lên đèn đi gác.   Theo làn gió mát Anh đi rất êm, Đi suốt một đêm Lo cho người ngủ.   Tiếng chị cò bợ: “Ru hỡi ru hời! Hỡi bé tôi ơi, Ngủ cho ngon giấc!”...   Ngoài sông thím vạc Lặng lẽ mò tôm Bên cạnh Sao Hôm Long...
Đọc tiếp

I. KIỂM TRA ĐỌC HIỂU KẾT HỢP KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu.

  Anh đom đóm​

      (Trích)

Mặt Trời gác núi

Bóng tối lan dần,

Anh đóm chuyên cần

Lên đèn đi gác.

 

Theo làn gió mát

Anh đi rất êm,

Đi suốt một đêm

Lo cho người ngủ.

 

Tiếng chị cò bợ:

“Ru hỡi ru hời!

Hỡi bé tôi ơi,

Ngủ cho ngon giấc!”...

 

Ngoài sông thím vạc

Lặng lẽ mò tôm

Bên cạnh Sao Hôm

Long lanh đáy nước.

 

Từng bước, từng bước

Vung ngọn đèn lồng

Anh đóm quay vòng

Như sao bừng nở...

 

Gà đâu rộn rịp

Gáy sáng đằng đông,

Tắt ngọn đèn lồng

Đóm lui về nghỉ.

             VÕ QUẢNG

Câu 7. (1.0đ) Từ hình ảnh anh đom đóm, em rút ra bài học gì cho bản thân?

Câu 8. (1.0đ) Tìm từ có nghĩa giống với từ rộn rịp trong dòng thơ Gà đâu rộn rịp và đặt câu với từ vừa tìm được.

2
12 tháng 3

uccheđiên

hôm nay ngu  
   
   

 

6 tháng 3

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Tú Xương là một gương mặt thơ nổi bật với những cách tân mới mẻ. Cùng với hai mảng đề tài về xã hội Nam Định buổi giao thời và cảnh đời tư thì thực trạng thi cử cũng là đề tài mà ông quan tâm phản ánh. Ông đã để lại 13 bài thơ và phú về vấn đề “thi cử”, trong đó nổi bật là bài thơ “Vịnh khoa thi Hương”. Tác phẩm được làm thao thể thơ thất ngôn bát cú đã thể hiện rõ thực trạng xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam đang dần mục nát lúc bấy giờ, đồng thời thể hiện tiếng cười trào phúng chua chát, sâu cay của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.

Hai câu thơ tuy đơn giản nhưng đã khéo léo giới thiệu được đặc điểm của kì thi Hương lần này. Đặc điểm thứ nhất là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ thi cử. Đặc điểm thứ hai đã làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, toàn Bắc Kì có hai địa điểm thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái tính chất hỗn tạp, láo nháo, không còn thể thống gì.

Tính chất tạp nhạp, lôi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước sang hai câu thực:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Một khung cảnh thật là tạp nham, thật là nhốn nháo. Nào là sĩ tử đi thi, nào là quan lại coi thi cứ nhốn nháo hết cả lên, chẳng có quy cách của một kì thi hương quan trọng của triều đình. Hai nhân vật chính trong kì thi được bộc lộ, khắc họa thật rõ nét. Đồng thời cũng cho người đọc chúng ta thấy được cái tính cách, quy cách của trường thi năm nay thật khác biệt so với thời xưa. "Sĩ tử" là những người đi thi, đáng ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây toàn thấy là sự luộm thuộm, lôi thôi với bao nhiêu chai với lọ, thật nhếch nhác quá đỗi. Tú Xương đã cố ý đảo chữ "lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi hương lần này. Hình ảnh cái "lọ" - vốn được cho là đựng mực, đựng nước uống của sĩ tử, nhưng lại "đeo" trên vai. Nghe sao có vẻ mỉa mai đến thế. Cái hình ảnh ấy như đang gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở thành những trụ cột tương lai của đất nước. Và hơn thế, ông cũng muốn nhấn rằng những kẻ "vai đeo lọ" kia là những kẻ sĩ, những kẻ có tri thức trong xã hội mà lại không thể giữ cho mình cái phong thái mang danh kẻ sĩ ấy.

Không chỉ vậy, Tú Xương cũng nhấn mạnh thật kĩ hình ảnh của lũ "quan trường" - quan coi thi ở trường thi. Ông cũng đã tìm ra cho chúng một từ ngữ thật xứng đáng "ậm ọe".

"Ậm ọe quan trường miệng thét loa"

Nếu như lũ sĩ tử "lôi thôi", nhếch nhác bao nhiêu thì lũ quan trường lại "ậm ọe", lố lăng bấy nhiêu. Quả đúng là một từ ngữ sáng tạo xứng danh cái tên Tú Xương. Cái âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Nó cũng miêu tả cái sự phách lối, giáo điều, ra vẻ của đám quan trường ấy. Tú Xương đã đóng vai một nhà nhiếp ảnh để thu lại những hình ảnh chân thực nhất ở trường thi năm ấy bởi  không chỉ đám sĩ tử mất đi cái phong thái của một kẻ sĩ học chữ Nho mà đám quan lại cũng mất đi sự tôn kính, trang nghiêm của một kì thi lớn của đất nước.

Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam, mà triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười.

Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.”

Vẫn trung thành với lối tả thực, Tú Xương tiếp tục vẽ lại bức tranh trường thi khi mà nó được viếng thăm bởi tên Toàn quyền người Pháp cùng vợ của hắn. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ông Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật là long trọng, thật là kính cẩn. Không chỉ vậy, quan Tây bà đầm còn được miêu tả là được ngồi lên vị trí cao nhất của trường thi. Tú Xương đang ám chỉ điều gì? Phải chăng là cảnh nước mất nhà tan đã diễn ra ngay trước mắt?

Thế nhưng, phải thật tinh tế mới nhận ra, Tú Xương đã dùng thơ Đường làm vũ khí để mỉa mai thật sắc bén, để bày tỏ thái độ của mình đối với lũ cướp nước kia.

Sử dụng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng" của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó là mỉa mai đầy châm biếm, câu thơ như "chửi thẳng" vào mặt viên quan sứ người Tây kia. Không chỉ thế, tác giả đã dùng từ "quan sứ" để nói về ông quan tây nhưng lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ông ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ, một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp kia hay sao? Bởi ai cũng biết, từ "mụ" để chỉ những hạng đàn bà không ra gì, gọi vợ của "quan sứ" là "mụ" thì khác gì nói ông "quan sứ" kia chỉ là "thằng" mà thôi sao? Quả thật, cái chửi của Tú Xương sâu cay và thâm thúy đến nhường nào!

Thế mới thấy, thơ Tú Xương không chỉ miêu tả cái hiện thực lạnh lùng, tàn khốc mà còn lồng cả vào đó tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, phơi bày trong đó cái tâm của một kẻ sĩ yêu nước, đau lòng vì nước mất nhà tan nhưng vì lực yếu sức mỏng mà đành dùng lời văn làm vũ khí cho mình.

Để đến cuối cùng, cái cười kia chẳng thể át nổi niềm đau xót trong tâm của ông, nó bật ra thành tiếng:

"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".

"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc đế vương ngự trị, nơi của anh tài khắp đất nước hội tụ về đây. Lời thơ như một tiếng than đau xót vô vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào tay giặc. Ông đang nói với chính mình hay là đang kêu gọi ai, ai còn nghĩ tới nỗi nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc bốn ngàn năm lịch sử này chăng? Đọc câu thơ mà ta thấy sự xót xa, đau xót của tác giả trước tình cảnh của đất nước. "Nhân tài" ở đây chỉ ai, nó chỉ là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước được bước qua cánh cửa thi hương này, hay là những kẻ đã từng đặt chân đến đây hãy nhìn xem "cảnh nước nhà"?

Ở đây, Tú Xương không quyết liệt thể hiện tư tưởng kêu gọi mọi người chung tay dẹp loạn như trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:

"Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"

Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.

Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ông nhắm tới những người "dẹp loạn". Điều đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm "dẹp loạn" của nhà thơ ca ngợi và chủ xướng quan niệm "Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây".

Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người còn không thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi "ngoảnh cổ mà trông". Ngoảnh cổ là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ "ngoảnh cổ" của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm họa của truyện cười. Cho nên không phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng lòng của ông bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ.

Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Tú Xương viết bằng thể thơ Đường thất ngôn bát cú. Với tài hoa, cùng nghệ thuật châm biếm sâu cay, ông đã dựng lên bức tranh về trường thi Hương những năm cuối triều Nguyễn với sự nhốn nháo, lố lăng của lũ quan trường, sự nhếch nhác của đám sĩ tử. Đồng thời, qua đó, ông cũng muốn vẽ lên cái hiện thực về xã hội phong kiến nửa thực dân bằng cái nhìn đầy mỉa mai của mình và gửi vào trong đó, tâm tư của một kẻ sĩ yêu nước trước tình cảnh của đất nước. Vì vậy, không có gì là khó hiểu khi có người cho rằng "thơ Tú Xương” đi bằng cả hai chân: Hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái (Nguyễn Tuân). Trên đôi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ "Vịnh khoa thi Hương", Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã hội Việt Nam.

 

22 tháng 2

 Người ăn xin là một truyện ngắn thành công của Tuốc - ghê - nhép. Với một cốt truyện nhẹ nhàng nhưng mang tính giáo dục cao, câu chuyện đã gửi gắm cho người đọc rất nhiều những điều ý nghĩa về cuộc sống. Truyện đã xây dựng thành công nhân vật tôi, một chàng thanh niên tuy ít tuổi nhưng rất giàu lòng nhân ái, biết đối nhân xử thế.

    Người ăn xin có một cốt truyện rất đơn giản, xoay quanh nhân vật tôi và người ăn xin. Họ tình cờ gặp nhau trên đường, người ăn xin chìa tay xin tôi một chút gì đó. Tuy không có gì trong tay nhưng nhân vật tôi đã thật tử tế nắm lấy đôi tay người ăn xin và tặng ông những tình cảm thật ấm áp chân thành. Cốt truyện đơn giản, xoay quanh hai nhân vật và một tình huống đời thường, song cần đó cũng để để các nhân vật bộc lộ những nét phẩm chất và tính cách của mình.

   Nhân vật tôi gây ấn tượng với người đọc bởi một trái tim rất ấm áp, chân thành. Khi chứng kiến tình cảnh của ông lão tay run run và đôi mắt đỏ hoe, tôi đã động lòng trắc ẩn. Sự nhân hậu, chân thành đã khiến tôi phải trăn trở trước hoàn cảnh éo le của ông lão ăn xin đáng thương. Tôi lục lọi khắp các túi để tìm kiếm chút gì đó cho ông lão nhưng không có gì. Cuối cùng tôi đã đáp lại ông lão bằng một cái nắm tay thật chặt “Ông đừng giận cháu, cháu không có gì để cho ông cả”. Đúng nhân vật tôi đã không có gì để cho ông lão nhưng kỳ thực tôi đã cho ông lão rất nhiều. Đó là sự cảm thông, chia sẻ, là trái tim ấm áp giúp ông lão vơi bớt những nỗi bất hạnh, thiệt thòi trong cuộc đời mình. Ngần ấy thôi cũng đã rất đủ trước xã hội đang thiếu vắng tình người.

    Nhân vật tôi được khắc họa qua người kể chuyện ngôi thứ nhất. Với người kể chuyện này tác phẩm trở nên chân thật hơn, đáng tin hơn. Nhân vật - nhà văn - người kể chuyện đồng hiện làm một, từ đó cũng dễ dàng bộc lộ, đánh giá, nhận xét những thứ xung quanh mình. Tình tiết truyện nhẹ nhàng nhưng lại rất giàu ý nghĩa, từ đó giúp người đọc hiểu sâu hơn về nhân vật và những ý đồ nghệ thuật được tác giả gửi gắm.

    Dù là một mẩu truyện rất ngắn song “Người ăn xin” của Tuốc - ghê - nhép vẫn xây dựng thành công nhân vật tôi. Qua nhân vật này tác giả nhắn nhủ con người trong cuộc sống này hãy luôn tin yêu và dành cho nhau những tình cảm tốt đẹp nhất.

22 tháng 2
  1. Việc uống nước nhớ nguồn không chỉ đề cao tinh thần biết ơn mà còn nhấn mạnh vào việc giữ gìn và trân trọng những nguồn tài nguyên quý báu mà tự nhiên ban tặng cho chúng ta.

  2. Câu nói "Học, học nữa, học mãi" của Lê Nin thể hiện tầm quan trọng của việc học tập và không ngừng rèn luyện kiến thức, kỹ năng để phát triển bản thân và đóng góp vào sự phát triển của xã hội.