em hãy làm 1 bài THƠ về tình bn
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Lời tri ân
Thầy cô giáo, người lái đò thầm lặng
Ươm ước mơ để hiến tặng cho đời
Chẳng quản gì...chắt từng giọt mồ hôi
Đem con chữ để trao dồi kiến thức
Lòng nhiệt huyết đó chính là hạnh phúc
Bắt nhịp cầu duy nhất...sáng tương lai
Những đêm thâu trang giáo án miệt mài
Với lý tưởng trồng người đầy hăng hái
Sống cống hiến , đắp bồi tình nhân ái
Lòng nhiệt thành theo mãi với thời gian
Quyết "đưa đò" thì sá kể gian nan
Cầu tri thức sẽ vô vàn lối mở...
"Ngày Nhà Giáo" như âm thầm nhắc nhở
Công ơn này ghi khắc ở trong tâm
Hướng lòng thành xây cuộc sống nghĩa nhân
Mong bù đắp đôi phần "Tiên Học Lễ"
I. Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"
1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;
2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.
3. Không "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.
Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.
Đã từ lâu, khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế lại trầm trồ nói về chiếc áo dài. Quả thực, chiếc áo dài Việt Nam xứng đáng được coi là loại trang phục truyền thống thể hiện được vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.
Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng, 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái.
Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ta ống rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu.
Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo dài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương.
Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ... là một cách biểu hiện tâm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng "mô phật di đà"... hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam.
Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang... chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi.
Đã từ lâu, khi nhắc đến người phụ nữ Việt Nam, bạn bè quốc tế lại trầm trồ nói về chiếc áo dài. Quả thực, chiếc áo dài Việt Nam xứng đáng được coi là loại trang phục truyền thống thể hiện được vẻ đẹp và tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.
Gọi là áo dài là theo cấu tạo của áo, thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của người phụ nữ rồi từ đáy lưng, 2 thân thả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên dáng, mềm mại, uyển chuyển hơn cho người con gái.
Tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kín đáo trang nhã lướt trên đường phố trở thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yêu kiều, thanh lịch cho con người và khung cảnh xung quanh. Chiếc quần may theo kiểu quần ta ống rộng bằng thứ vải đồng chất đồng màu hay sa tanh trắng nâng đỡ tà áo và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ trang phục mượt mà duyên dáng, gợi vẻ đằm thắm đáng yêu.
Đã ngót một thế kỷ nay, cô nữ sinh trường Quốc học Huế trong trang phục áo dài trắng trinh nguyên như là biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn người thiếu nữ đất Việt. Để đến bây giờ trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các trường phổ thông trung học như muốn nói với mọi người với du khách quốc tế về văn hoá và bản sắc dân tộc. Tà áo trắng bay bay trên đường phố, tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của những cô cậu học sinh vương lại phía sau cùng mảnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho người qua đường một cảm giác lâng lâng, bâng khuâng nhớ về thuở học trò trong vắt những kỷ niệm thân thương.
Ngày Tết hay lễ hội quê hương, đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà, các mẹ, các chị, chiếc áo dài nâu, hồng, đỏ... là một cách biểu hiện tâm lòng thành kính gửi đến cửa thiền một lòng siêu thoát, tôn nghiêm. Chiếc áo dài trùm gối, khăn mỏ quạ chít khéo như hoa sen, tay nâng mâm lễ kính cẩn lên cửa chùa, miệng "mô phật di đà"... hình ảnh ấy đã đi vào bức hoạ tranh dân gian Đông Hồ là một biểu tượng độc đáo của văn hoá Việt Nam.
Ngày nay trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, váy đầm, áo ngắn, áo thời trang... chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và tâm hồn người Việt đến với năm châu và trở thành trang phục công sở ở nhiều nơi.
Hok tốt nhé!!!
Đồng hồ là một công cụ để đo đạc những mốc thời gian nhỏ hơn một ngày; đối lập với lịch, là một công cụ để đo thời gian dài hơn một ngày. Những loại đồng hồ dùng trong kĩ thuật thường có độ chính xác rất cao và cấu tạo rất phức tạp. Trong khi đó, người ta có thể tạo ra những loại đồng hồ nhỏ để dễ dàng mang theo bên mình (gọi là đồng hồ đeo tay). Những loại đồng hồ hiện đại (từ thế kỉ 14 trở đi) thường thể hiện ba thông tin: giờ, phút, giây.
Nguồn gốc lịch sử
Một mô hình đồng hồ đầu tiên của Trung Hoa, sử dụng nhang để báo giờ
Stonehenge, một trong những đồng hồ mặt trời được biết đến đầu tiên
Chúng ta nói về thời gian mỗi ngày. Chúng ta tính nó bằng giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ và thiên niên kỷ. Trước khi chưa có phát minh về đồng hồ, con người sử dụng nhiều thứ khác nhau để tính thời gian như: nhang, đèn cầy, lịch. Con người còn sử dụng mặt trời, cát để chia một ngày ra thành nhiều giờ. Đồng hồ như chúng ta biết đến ngày nay được phát triển bởi những người sùng đạo ở châu Âu vào thế kỷ thứ 17. Họ cần biết thời gian chính xác để gặp nhau tại nhà thờ. Người Trung Quốc phát minh ra đồng hồ nước vào thế kỷ thứ 17, nhưng người Ai Cập cổ đại đã có chúng trước đó lâu rồi. Vào những thập niên 1700, con người đã có đồng hồ treo tường và đồng hồ đeo tay, chính xác đến từng phút.
Đồng hồ mặt trời, đồng hồ cát, nhang và đèn cầy
đồng hồ là một trong những phát minh cổ nhất của con người, khi con người có yêu cầu xác định một tiến trình xảy ra trong một khoảng thời gian mau hay nhanh. Trong khi Mặt Trăng và các ngôi sao có thể được sử dụng để đo những khoảng thời gian dài thì những khoảng thời gian ngắn lại là một vấn đề khác. Một trong những giải pháp đầu tiên mà con người biết đến là đồng hồ mặt trời, nhưng chỉ có thể để đo những khoảng thời gian nhỏ vào ban ngày bằng cách sử dụng bóng của Mặt Trời chiếu lên qua những cột mốc.
Về sau, đèn cầy và các loại nhang được sử dụng để đo thời gian. Khoảng thời gian để chúng cháy hết xấp xỉ bằng nhau và thường được dùng để ước tính thời gian.
Ngoài ra còn có những loại đồng hồ cát. Ở đó, cát mịn được cho chảy qua một cái lỗ nhỏ ở một tốc độ nhất định từ đó xác định một khoảng thời gian.
Đồng hồ nước
Sử gia Vitruvius ghi chép lại rằng ở Ai Cập cổ đại, người ta sử dụng những loại đồng hồ nước có tên là clepsydra. Herodotus cũng đã đề cập đến một dụng cụ đo thời gian khác của người Ai Cập hoạt động nhờ thủy ngân. Những tài liệu về đồng hồ nước cũng được tìm thấy ở nhiều nơi trên bán đảo Ả Rập, Trung Quốc và Hàn Quốc.
[sửa] Những loại đồng hồ cơ học đầu tiên
Đồng hồ Big Ben ở thủ đô London, Anh có kim giờ dài 1,63 m trong khi kim phút dài 4,3 m
Tuy không còn bất kì chiếc đồng hồ nào sót lại từ thời Trung cổ nhưng những văn bản ghi chép của nhà thờ cũng một phần nào nói lên bí mật về lịch sử của đồng hồ.
Tín ngưỡng vào thời Trung cổ bắt buộc phải sử dụng đồng hồ để đo đạc thời gian vì trong nhiều thế kỉ, buổi cầu nguyện hàng ngày và công việc đều được quy định chặt chẽ. Do đó người ta có thể đã sử dụng những công cụ như đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời và nến kết hợp với những dụng cụ khác để báo hiệu như chuông nhờ một những cơ cấu cơ học đơn giản trong đó sử dụng quả nặng. Do đó, những loại đồng hồ đâu tiên không sử dụng kim nhưng sử dụng âm thanh làm tín hiệu.
Vì vậy, trong nhiều ngôn ngữ hiện đại, từ "đồng hồ" có nguồn gốc từ tiếng Latin cloca có nghĩa là "chuông".
Cấu trúc cơ học mới cho đồng hồ
Ở khoảng giữa những năm 1280 và 1320, những tư liệu của nhà thờ về những loại dụng cụ để đo thời gian tăng lên. Điều này có thể thể hiện một cấu trúc đồng hồ mới được thiết kế ở thời kì này: bao gồm một hệ thống những quả nặng kết hợp với những con quay. Năng lượng được trong đồng hồ được điều khiển bởi những cấu trúc gọi là "hồi".
Những dụng cụ cơ khí được áp dụng vào đồng hồ vì hai lí do chính: để đánh dấu, báo hiệu thời gian và về sau là đánh dấu sự chuyển động của các thiên thể. Nhu cầu đầu tiên là vì sự tiện lợi trong quản lý, còn nhu cầu sau dành cho những môn khoa học, thiên văn học, và mối quan hệ giữa chúng với tôn giáo. Những đồng hồ đầu tiên thường được đặt ở những tòa tháp chính, không cần thiết có kim nhưng chỉ cần có khả năng báo hiệu giờ. Những chiếc đồng hồ phức tạp khác cũng xuất hiện và có kim để chỉ giờ và cả một cơ cấu tự động.
Vào năm 1283, một chiếc đồng hồ được lắp đặt ở Dunstable Priory, điều đáng chú ý ở đây là nó là chiếc đồng hồ được người ta cho là đồng hồ cơ khí không sử dụng sức nước đầu tiên. Vào năm 1292, một chiếc đồng hồ tương tự được cho là đã được lắp đạt ở nhà thờ Canterbury. Năm 1322, một cái khác được lắp đặt ở Norwich. Công trình như trên đòi hỏi công sức của hai người thợ lành nghề trong vòng 2 năm.
Những bộ phận của đồng hồ cơ
Hầu hết những loại đồng hồ từ thế kỉ 14 đến nay đều có những bộ phận chính như sau:
* nguồn năng lượng, lúc trước là một con lắc(nguồn năng lượng không bao giờ là con lắc, năng lượng của nó rất nhỏ), về sau là dây cót
* hồi, một cơ cấu được thiết kế sao cho năng lượng thoát ra từ từ chứ không thoát ra tất cả cùng lúc, cơ cấu của hồi ban đầu là con lắc đơn (trong các đồng hồ quả lắc), sau đó là con lắc xoay nằm ở tâm một lò xo mảnh và nhẹ (trong các đồng hồ quả quýt và đồng hồ đeo tay), rồi là tinh thể thạch anh, và các cơ cấu tinh vi hơn...
* hệ thống bánh răng, có nhiệm vụ điều khiển và truyền chuyển động từ nguồn đến bộ phận hiển thị
* hệ thống hiển thị, bao gồm kim, chuông,...
Những cải tiến
Những người thợ làm đồng hồ đã cải tiến phát minh của mình dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiết kế những loại đồng hồ càng lúc càng nhỏ dần dần trở thành một thách thức lớn, bởi vì họ còn phải bảo đảm tính chính xác và bền bỉ của đồng hồ. Đồng hồ có thể là một tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ tài năng nhưng cũng có thể được sản xuất hàng loạt để sử dụng trong nhà.
Đầu tiên, hệ thống dây cót được phát triển vào thế kỉ 15, và đó đã trở thành một thách thức mới cho những người thợ làm dồng hồ.
Kim phút xuất hiện đầu tiên ở đồng hồ vào năm 1475, được nhắc đến trong Almanus Manuscript của nhà tu Paul.
Trong suốt thế kỉ 15 và 16, nghệ thuật làm đồng hồ phát triển ở những thị trấn như Nürnberg, Augsburg, Blois. Một số đồng hồ chỉ có một kim và bề mặt đồng hồ được chia làm 4 khoảng để người đọc dễ dàng theo dõi đồng hồ. Một hệ thống hồi hoàn chỉnh được thiết kế bởi Jobst Burgi vào năm 1585. Những chiếc đồng hồ chính xác của ông đã giúp Johannes Kepler và Tycho Brahe quan sát thiên văn với độ chính xác cao hơn.
Kim giây xuất hiện vào khoảng năm 1560 trong bộ sưu tập của Fremersdorf. Tuy nhiên nó hoạt động không được chính xác lắm, và kim giây chỉ giúp cho chúng ta nhận ra rằng đồng hồ vẫn còn hoạt động.
Vào năm 1653, Galileo Galilei phát minh ra con lắc dẫn đến sự ra đời của đồng hồ quả lắc do Christiaan Huygens chế tạo. Ông đã xác định nếu con lắc có độ dài là 99,38 cm thì một chu kì của nó sẽ là đúng 1 giây. Vào năm 1670, William Clement phát minh ra hệ thống hồi dạng mỏ neo giúp nâng độ chính xác. Từ đó, kim phút và kim giây xuất hiện ở hầu hết những loại đồng hồ.
Đồng hồ là một công cụ để đo đạc những mốc thời gian nhỏ hơn một ngày; đối lập với lịch, là một công cụ để đo thời gian dài hơn một ngày. Những loại đồng hồ dùng trong kĩ thuật thường có độ chính xác rất cao và cấu tạo rất phức tạp. Trong khi đó, người ta có thể tạo ra những loại đồng hồ nhỏ để dễ dàng mang theo bên mình (gọi là đồng hồ đeo tay). Những loại đồng hồ hiện đại (từ thế kỉ 14 trở đi) thường thể hiện ba thông tin: giờ, phút, giây.
Nguồn gốc lịch sử
Một mô hình đồng hồ đầu tiên của Trung Hoa, sử dụng nhang để báo giờ
Stonehenge, một trong những đồng hồ mặt trời được biết đến đầu tiên
Chúng ta nói về thời gian mỗi ngày. Chúng ta tính nó bằng giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, thập kỷ, thế kỷ và thiên niên kỷ. Trước khi chưa có phát minh về đồng hồ, con người sử dụng nhiều thứ khác nhau để tính thời gian như: nhang, đèn cầy, lịch. Con người còn sử dụng mặt trời, cát để chia một ngày ra thành nhiều giờ. Đồng hồ như chúng ta biết đến ngày nay được phát triển bởi những người sùng đạo ở châu Âu vào thế kỷ thứ 17. Họ cần biết thời gian chính xác để gặp nhau tại nhà thờ. Người Trung Quốc phát minh ra đồng hồ nước vào thế kỷ thứ 17, nhưng người Ai Cập cổ đại đã có chúng trước đó lâu rồi. Vào những thập niên 1700, con người đã có đồng hồ treo tường và đồng hồ đeo tay, chính xác đến từng phút.
Đồng hồ mặt trời, đồng hồ cát, nhang và đèn cầy
đồng hồ là một trong những phát minh cổ nhất của con người, khi con người có yêu cầu xác định một tiến trình xảy ra trong một khoảng thời gian mau hay nhanh. Trong khi Mặt Trăng và các ngôi sao có thể được sử dụng để đo những khoảng thời gian dài thì những khoảng thời gian ngắn lại là một vấn đề khác. Một trong những giải pháp đầu tiên mà con người biết đến là đồng hồ mặt trời, nhưng chỉ có thể để đo những khoảng thời gian nhỏ vào ban ngày bằng cách sử dụng bóng của Mặt Trời chiếu lên qua những cột mốc.
Về sau, đèn cầy và các loại nhang được sử dụng để đo thời gian. Khoảng thời gian để chúng cháy hết xấp xỉ bằng nhau và thường được dùng để ước tính thời gian.
Ngoài ra còn có những loại đồng hồ cát. Ở đó, cát mịn được cho chảy qua một cái lỗ nhỏ ở một tốc độ nhất định từ đó xác định một khoảng thời gian.
Đồng hồ nước
Sử gia Vitruvius ghi chép lại rằng ở Ai Cập cổ đại, người ta sử dụng những loại đồng hồ nước có tên là clepsydra. Herodotus cũng đã đề cập đến một dụng cụ đo thời gian khác của người Ai Cập hoạt động nhờ thủy ngân. Những tài liệu về đồng hồ nước cũng được tìm thấy ở nhiều nơi trên bán đảo Ả Rập, Trung Quốc và Hàn Quốc.
[sửa] Những loại đồng hồ cơ học đầu tiên
Đồng hồ Big Ben ở thủ đô London, Anh có kim giờ dài 1,63 m trong khi kim phút dài 4,3 m
Tuy không còn bất kì chiếc đồng hồ nào sót lại từ thời Trung cổ nhưng những văn bản ghi chép của nhà thờ cũng một phần nào nói lên bí mật về lịch sử của đồng hồ.
Tín ngưỡng vào thời Trung cổ bắt buộc phải sử dụng đồng hồ để đo đạc thời gian vì trong nhiều thế kỉ, buổi cầu nguyện hàng ngày và công việc đều được quy định chặt chẽ. Do đó người ta có thể đã sử dụng những công cụ như đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời và nến kết hợp với những dụng cụ khác để báo hiệu như chuông nhờ một những cơ cấu cơ học đơn giản trong đó sử dụng quả nặng. Do đó, những loại đồng hồ đâu tiên không sử dụng kim nhưng sử dụng âm thanh làm tín hiệu.
Vì vậy, trong nhiều ngôn ngữ hiện đại, từ "đồng hồ" có nguồn gốc từ tiếng Latin cloca có nghĩa là "chuông".
Cấu trúc cơ học mới cho đồng hồ
Ở khoảng giữa những năm 1280 và 1320, những tư liệu của nhà thờ về những loại dụng cụ để đo thời gian tăng lên. Điều này có thể thể hiện một cấu trúc đồng hồ mới được thiết kế ở thời kì này: bao gồm một hệ thống những quả nặng kết hợp với những con quay. Năng lượng được trong đồng hồ được điều khiển bởi những cấu trúc gọi là "hồi".
Những dụng cụ cơ khí được áp dụng vào đồng hồ vì hai lí do chính: để đánh dấu, báo hiệu thời gian và về sau là đánh dấu sự chuyển động của các thiên thể. Nhu cầu đầu tiên là vì sự tiện lợi trong quản lý, còn nhu cầu sau dành cho những môn khoa học, thiên văn học, và mối quan hệ giữa chúng với tôn giáo. Những đồng hồ đầu tiên thường được đặt ở những tòa tháp chính, không cần thiết có kim nhưng chỉ cần có khả năng báo hiệu giờ. Những chiếc đồng hồ phức tạp khác cũng xuất hiện và có kim để chỉ giờ và cả một cơ cấu tự động.
Vào năm 1283, một chiếc đồng hồ được lắp đặt ở Dunstable Priory, điều đáng chú ý ở đây là nó là chiếc đồng hồ được người ta cho là đồng hồ cơ khí không sử dụng sức nước đầu tiên. Vào năm 1292, một chiếc đồng hồ tương tự được cho là đã được lắp đạt ở nhà thờ Canterbury. Năm 1322, một cái khác được lắp đặt ở Norwich. Công trình như trên đòi hỏi công sức của hai người thợ lành nghề trong vòng 2 năm.
Những bộ phận của đồng hồ cơ
Hầu hết những loại đồng hồ từ thế kỉ 14 đến nay đều có những bộ phận chính như sau:
* nguồn năng lượng, lúc trước là một con lắc(nguồn năng lượng không bao giờ là con lắc, năng lượng của nó rất nhỏ), về sau là dây cót
* hồi, một cơ cấu được thiết kế sao cho năng lượng thoát ra từ từ chứ không thoát ra tất cả cùng lúc, cơ cấu của hồi ban đầu là con lắc đơn (trong các đồng hồ quả lắc), sau đó là con lắc xoay nằm ở tâm một lò xo mảnh và nhẹ (trong các đồng hồ quả quýt và đồng hồ đeo tay), rồi là tinh thể thạch anh, và các cơ cấu tinh vi hơn...
* hệ thống bánh răng, có nhiệm vụ điều khiển và truyền chuyển động từ nguồn đến bộ phận hiển thị
* hệ thống hiển thị, bao gồm kim, chuông,...
Những cải tiến
Những người thợ làm đồng hồ đã cải tiến phát minh của mình dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiết kế những loại đồng hồ càng lúc càng nhỏ dần dần trở thành một thách thức lớn, bởi vì họ còn phải bảo đảm tính chính xác và bền bỉ của đồng hồ. Đồng hồ có thể là một tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ tài năng nhưng cũng có thể được sản xuất hàng loạt để sử dụng trong nhà.
Đầu tiên, hệ thống dây cót được phát triển vào thế kỉ 15, và đó đã trở thành một thách thức mới cho những người thợ làm dồng hồ.
Kim phút xuất hiện đầu tiên ở đồng hồ vào năm 1475, được nhắc đến trong Almanus Manuscript của nhà tu Paul.
Trong suốt thế kỉ 15 và 16, nghệ thuật làm đồng hồ phát triển ở những thị trấn như Nürnberg, Augsburg, Blois. Một số đồng hồ chỉ có một kim và bề mặt đồng hồ được chia làm 4 khoảng để người đọc dễ dàng theo dõi đồng hồ. Một hệ thống hồi hoàn chỉnh được thiết kế bởi Jobst Burgi vào năm 1585. Những chiếc đồng hồ chính xác của ông đã giúp Johannes Kepler và Tycho Brahe quan sát thiên văn với độ chính xác cao hơn.
Kim giây xuất hiện vào khoảng năm 1560 trong bộ sưu tập của Fremersdorf. Tuy nhiên nó hoạt động không được chính xác lắm, và kim giây chỉ giúp cho chúng ta nhận ra rằng đồng hồ vẫn còn hoạt động.
Vào năm 1653, Galileo Galilei phát minh ra con lắc dẫn đến sự ra đời của đồng hồ quả lắc do Christiaan Huygens chế tạo. Ông đã xác định nếu con lắc có độ dài là 99,38 cm thì một chu kì của nó sẽ là đúng 1 giây. Vào năm 1670, William Clement phát minh ra hệ thống hồi dạng mỏ neo giúp nâng độ chính xác. Từ đó, kim phút và kim giây xuất hiện ở hầu hết những loại đồng hồ.
cho bạn dàn ý nè
+ MB: giới thiệu về tấm lịch treo tường, thế nào thì tùy bạn nhé, có thể giới thiệu là ngay từ xa xưa, con người đã cần có một vật dụng giúp họ theo dõi thời gian để sắp xếp tính toán công việc, bla bla bla, ... Cái này tùy sáng tạo của bạn
+ TB:
_LĐ1: Nguồn gốc, xuất xứ của lịch nói chung (tra trên Wikipedia nha, mình cũng không rõ lắm, nhưng nhìn chung là được sáng tác bởi các nhà thiên văn học ngay từ thời xa xưa). Nói xong xuất xứ thì nhớ dẫn sang vì sao có lịch treo tường nhé (VD: để tiết kiệm không gian, để dễ quan sát,...)
_LĐ2: Các loại lịch treo tường (có lịch blog, có lịch gáy xoắn,...) Bây giờ, các loại lịch có rất nhiều mẫu mã, màu sắc, kích cỡ, phù hợp với tất cả mọi người.
_LĐ3: Công dụng: giúp ta theo dõi được ngày tháng, từ đó sắp xếp được công việc cho hợp lý (VD: có thể thêm yếu tố tự sự ở đây cho đỡ nhàm, ví dụ không có lịch thì bố không thể biết sinh nhật tôi mà tặng tôi chiếc xe đạp địa hình, không có lịch thì tôi không biết ngày bắt đầu khóa học TOEFL ở trung tâm Summit,...vv)
+ KB: khẳng định công dụng của chiếc lịch treo tường
Nhìn chung mình làm vẫn chưa được hay và chi tiết lắm, bạn nên tìm hiểu thêm và viết thêm cho hay nha. Chúc bạn thành công!
"Mong như mong mẹ về chợ...".Mẹ đi công tác xa nhà đã gần một tuần mà đến nay vẫn chưa về.Thiếu vắng bàn tay chăm sóc của mẹ,tôi mới hiểu mình cần có mẹ như thế nào.Mong quá,chiều nay mẹ sẽ về.Chiều buông dần xuống.Ba và anh Hai vẫn còn đi làm,chỉ có một mình tôi ở nhà.Có tiếng chó sủa và tiếng người trước cổng,tôi hồi hộp chạy ra.Hình ảnh quen thuộc của mẹ hiện ra trước ngưỡng cửa,tôi vô cùng mừng rỡ và cảm đọng.Mẹ đanh xách hai giỏ khá nặng,tôi vui quá reo to:"Ôi mẹ đã về!"Mẹ nhìn tôi ,ánh mắt đầy yêu thương trìu mến.Tôi vội giúp mẹ đem hai giỏ đò vào nhà:"Mẹ về con mừng quá!Sao mẹ đi lâu quá vậy?"Mẹ cười ,vẫn khóe mắt ấm áp mà tôi đã mong đợi và từng gặp trong giấc mơ.Khuôn mặt mẹ lấm tấm những giọt mồ hôi,có lẽ mẹ đã thấm mệt vì đường xa.Mợ gỡ chiếc nón lá tuy cũ nhưng còn lành lặn xuống để lộ mái tóc cháy vàng vì nắng,giờ đây đã được búi cao gọn gàng..Tôi vội bưng nước ra mời mẹ và quạt mát cho mẹ.Chiếc áo sơ mi trắng cũng ươn ướt mồ hôi.Mẹ uống nước và bước vào nhà trong xem xét dọn dẹp nhà cửa.Tôi thương mẹ quá.Mẹ còn mệt mà vẫn lo lắng,săn sóc chúng tôi.Ba thường bảo dáng đi nhẹ nhàng tất bật và bàn tay chai sần của mẹ chứa đưng trong đó một vùng trời yêu thương.Trong lúc vừa soạn đồ đạc mẹ hỏi thăm tôi chuyện gia đình,chuyện học hàng của tôi,ba với anh hai vẫn đi làm đều chứ?...Tôi không đòi hỏi quà những vẫn biết mẹ có quà cho mọi người:tính mẹ rất chu đáo.Mẹ ạ!Có lẽ không có mẹ cuộc đời con con sẽ rất vô nghĩa.Con vui vì được làm con của mẹ!
Quy nạp:
Mẹ là người quan trọng nhất đố với con.Thiếu vắng bàn tay chăm sóc của mẹ,tôi mới hiểu mình cần có mẹ như thế nào.Mong quá,chiều nay mẹ sẽ về.Chiều buông dần xuống.Ba và anh Hai vẫn còn đi làm,chỉ có một mình tôi ở nhà.Có tiếng chó sủa và tiếng người trước cổng,tôi hồi hộp chạy ra.Hình ảnh quen thuộc của mẹ hiện ra trước ngưỡng cửa,tôi vô cùng mừng rỡ và cảm đọng.Mẹ đanh xách hai giỏ khá nặng,tôi vui quá reo to:"Ôi mẹ đã về!"Mẹ nhìn tôi ,ánh mắt đầy yêu thương trìu mến.Tôi vội giúp mẹ đem hai giỏ đò vào nhà:"Mẹ về con mừng quá!Sao mẹ đi lâu quá vậy?"Mẹ cười ,vẫn khóe mắt ấm áp mà tôi đã mong đợi và từng gặp trong giấc mơ.Khuôn mặt mẹ lấm tấm những giọt mồ hôi,có lẽ mẹ đã thấm mệt vì đường xa.Mợ gỡ chiếc nón lá tuy cũ nhưng còn lành lặn xuống để lộ mái tóc cháy vàng vì nắng,giờ đây đã được búi cao gọn gàng..Tôi vội bưng nước ra mời mẹ và quạt mát cho mẹ.Chiếc áo sơ mi trắng cũng ươn ướt mồ hôi.Mẹ uống nước và bước vào nhà trong xem xét dọn dẹp nhà cửa.Tôi thương mẹ quá.Mẹ còn mệt mà vẫn lo lắng,săn sóc chúng tôi.Ba thường bảo dáng đi nhẹ nhàng tất bật và bàn tay chai sần của mẹ chứa đưng trong đó một vùng trời yêu thương.Trong lúc vừa soạn đồ đạc mẹ hỏi thăm tôi chuyện gia đình,chuyện học hàng của tôi,ba với anh hai vẫn đi làm đều chứ?...Tôi không đòi hỏi quà những vẫn biết mẹ có quà cho mọi người:tính mẹ rất chu đáo.Mẹ ạ!Có lẽ không có mẹ cuộc đời con con sẽ rất vô nghĩa.Vì vậy với con mẹ là người quan trọng nhất trong cuộc sống này.
Tổng Phân Hợp:
Nếu phải giải thích tại sao con cần mẹ và mẹ là người quan trọng nhất đối với con thì con sẽ không ngần ngại trả lời câu hỏi đó.Mẹ đi công tác xa nhà đã gần một tuần mà đến nay vẫn chưa về.Thiếu vắng bàn tay chăm sóc của mẹ,tôi mới hiểu mình cần có mẹ như thế nào.Mong quá,chiều nay mẹ sẽ về.Chiều buông dần xuống.Ba và anh Hai vẫn còn đi làm,chỉ có một mình tôi ở nhà.Có tiếng chó sủa và tiếng người trước cổng,tôi hồi hộp chạy ra.Hình ảnh quen thuộc của mẹ hiện ra trước ngưỡng cửa,tôi vô cùng mừng rỡ và cảm đọng.Mẹ đanh xách hai giỏ khá nặng,tôi vui quá reo to:"Ôi mẹ đã về!"Mẹ nhìn tôi ,ánh mắt đầy yêu thương trìu mến.Tôi vội giúp mẹ đem hai giỏ đò vào nhà:"Mẹ về con mừng quá!Sao mẹ đi lâu quá vậy?"Mẹ cười ,vẫn khóe mắt ấm áp mà tôi đã mong đợi và từng gặp trong giấc mơ.Khuôn mặt mẹ lấm tấm những giọt mồ hôi,có lẽ mẹ đã thấm mệt vì đường xa.Mợ gỡ chiếc nón lá tuy cũ nhưng còn lành lặn xuống để lộ mái tóc cháy vàng vì nắng,giờ đây đã được búi cao gọn gàng..Tôi vội bưng nước ra mời mẹ và quạt mát cho mẹ.Chiếc áo sơ mi trắng cũng ươn ướt mồ hôi.Mẹ uống nước và bước vào nhà trong xem xét dọn dẹp nhà cửa.Tôi thương mẹ quá.Mẹ còn mệt mà vẫn lo lắng,săn sóc chúng tôi.Ba thường bảo dáng đi nhẹ nhàng tất bật và bàn tay chai sần của mẹ chứa đưng trong đó một vùng trời yêu thương.Trong lúc vừa soạn đồ đạc mẹ hỏi thăm tôi chuyện gia đình,chuyện học hàng của tôi,ba với anh hai vẫn đi làm đều chứ?...Tôi không đòi hỏi quà những vẫn biết mẹ có quà cho mọi người:tính mẹ rất chu đáo.Mẹ ạ!Có lẽ không có mẹ cuộc đời con con sẽ rất vô nghĩa.Vì vậy với con mẹ là người quan trọng nhất trong cuộc sống này.
một người con được tạo thành từ bụng mẹ .từ khi đứa con lọt lòng chào đời,vòng tay ấm áp nhất dang rộng ôm lấy đứa con chính là vòng tay của mẹ.người con lớn lên theo ngày tháng trên vòng tay và giai điệu ru con của người mẹ.người duy nhất có thể gánh vác mọi thứ vất vả trong gia đình là người mẹ.người cho con chút ngọt đầu tiên là bầu sữa của mẹ.người mẹ là một người tuyệt vời sẽ luôn dõi theo con đến khi người con đủ hạnh phúc và trưởng thành.
1. TÌNH BẠN
Tình nào đẹp bằng tình bằng hữu
Cùng sẻ chia vui thú-buồn đau
Nơi nào ta cũng có nhau
Bạn bè ta mãi gởi trao tâm tình
Bạn cứ gọi! khi mình thổn thức
Hay khi lòng bứt rứt không yên
Có ta bên bạn xua phiền
Khắc ghi bạn nhé nỗi niềm riêng tư
Bạn hãy gọi dẫu từ xa lắm
Ta sẵn sàng khóc đẫm cùng nhau
Sớt chia bao nỗi nghẹn ngào
Chỉ cần bạn được vơi bao khối sầu!
Bạn đừng vội gục đầu than trách
Bởi cuộc đời thử thách đắng cay
Bạn buồn tôi sẽ kề vai
Đừng bao giờ để bi ai tủi hờn
Bạn nhớ nhé...cô đơn ..hãy đến
Những bạn bè là bến yêu thương
Mãi luôn giúp bạn kiên cường
Xóa tan phiền não, sầu vương..giã từ!!
Bài thơ nói về tình bạn là một món quà thiêng liêng và cao quý mà chúng ta cần trân trọng. Phải có tình bạn thì cuộc sống của chúng ta mới thật sự có ý nghĩa. Coi trọng tình bạn, nó sẽ đơm hoa kết trái và nảy nở mãi mãi không tàn lụi, là một vi thuốc tinh thần giúp ta luôn vững vàng trong cuộc sống hay khi đối mặt với khó khăn thử thách.
tự mình chế