Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tạo ra trí óc hình ảnh những cái không có ở trước mắt hay chưa từng có (tiếng có vần ''ươn'' hoặc ''ương'')
A.ngẫm nghĩ B.tưởng tượng C.suy tưởng D.liên tưởng
TL ;
Tạo ra trí óc hình ảnh những cái không có ở trước mắt hay chưa từng có (tiếng có vần ''ươn'' hoặc ''ương'')
A.ngẫm nghĩ B.tưởng tượng C.suy tưởng D.liên tưởng
Câu 1:
Thuộc phần "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
Dân gian ta quen gọi "Đoạn trường tân thanh" là "Truyện Kiều" vì trong số người đọc chúng ta ít ai có thể hiểu được số phận đau khổ của người phụ nữa xưa,chúng ta gọi là truyện Kiều bởi nhân vật Kiều là một người phụ nữ tượng trưng và tiêu biểu cho những người phụ nữ ấy.
Câu 2:
"Quạt nồng ấp lạnh" : “Do chữ Đông ôn hạ sảnh: Quạt khi trời mát, đắp chiếu chăn ấm khi trời rét lạnh, là nói đạo làm con phụng dưỡng cha mẹ.
Những suy nghĩ của Kiều về cha mẹ đã thể hiện vẻ đẹp yêu thương cha mẹ, tấm lòng hiếu thảo trong tâm hồn nàng.
Tham khảo:
Câu 1: Kiều ở lầu Ngưng Bích. Bởi vì nhân vật chính là Thúy Kiều, xuyên suốt câu chuyện là câu chuyện về cuộc đời lận đận, sóng gió của nàng.
Câu 2:
Giải thích nghĩa của điển tích "Quạt nồng ấp lạnh": nghĩa là vào mùa hè nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ; còn mùa đông giá rét thì vào nằm trước trong giường( ấp chăn chiếu) để khi cha mẹ ngủ, chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.
- Nếu khi nhớ đến Kim Trọng nàng “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng” thì khi nhớ đến cha mẹ nàng lại thương và xót khi tưởng tượng ở chốn quê nhà cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng tin con: “Xót người tựa cửa hôm mai”. Nàng xót xa, day dứt lúc cha mẹ tuổi già, sức yếu mà mình không được tự tay chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” và điển cố “sân lai gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiểu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng quê nhà đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm còn cha mẹ thì ngày càng già yếu.
- Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật.
- Lần nào nhớ đến cha mẹ nàng cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
- Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người phải chịu bao vùi dập, đau thương nhưng nàng đã quên đi bản thân mình để dành tình yêu thương cho người thân.
⇒ Thật đáng trân trọng biết bao những tình cảm thủy chung, hiếu thảo, vị tha mà Thúy Kiều dành cho cha mẹ và Kim Trọng!
Câu 3:
Muôn đời vẫn vậy, chữ hiếu vẫn luôn được đề cao trong xã hội. Hiếu thảo là tấm lòng yêu thương, chăm sóc ông bà cha, là sự tôn kính, lắng nghe, trân trọng tình cảm của đấng sinh thành với bản thân mình. Tấm lòng đó phải xuất phát từ tận đáy lòng người con, người cháu, là sự thấu hiểu và biết ơn với công lao sinh thành dưỡng dục mà cha mẹ đã hi sinh cho mình. Lòng hiếu thảo được thể hiện qua những hành động giản dị thường ngày như lời hỏi thăm cha mẹ khi trở về nhà, là chiếc khăn tặng ông bà khi trời trở gió, là chén trà lấy cho cha sau bữa cơm chiều, là sự cố gắng học hành để thấy được nụ cười vui của những người thân yêu… Tùy từng hoàn cảnh, từng khả năng của mỗi người để báo đáp tấm lòng cha mẹ. Hiện nay, trong xã hội, có một bộ phận những người con có ý thức và đạo đức suy đồi. Không những cãi lời cha mẹ, họ còn ăn chơi trác táng bằng những đồng tiền mồ hôi nước mắt của cha mẹ làm ra. Nhiều người cảm thấy phiền phức khi phải nuôi cha mẹ già yếu nên có thái độ cáu gắt, thậm chí đánh đập họ. Những người con bất hiếu chỉ quen hưởng thụ sung sướng, họ đâu biết rằng cha mẹ đã vất vả, hi sinh bao năm tháng để nuôi dưỡng họ nên người. Đó là sự ích kỉ, nhẫn tâm và bất hiếu của kẻ làm con. Vì vậy, chúng ta cần đối xử hiếu thảo với ông bà cha mẹ, từ những hành động quan tâm, chăm sóc hàng ngày để tình cảm gia đình càng bó keo sơn. Bởi thời gian trôi đi chẳng chờ đợi ai, sự sống chỉ là hữu hạn, hãy yêu thương chân thành và dành nhiều sự quan tâm chăm sóc cho những người thân yêu khi còn có thể bạn nhé.
TL ;
Ăn quất hay bị ê lưỡi
Trăng lưỡi liềm thật đẹp
Miệng nói mấp máy
Miệng bát bẩn kìa
Lưng kiểu gì mà gầy thế kia
Lưng núi xanh mướt
Cổ tay áo rách
Cổ tay của cầu rất chắc và cxuwngs cap
- Lưỡi: lưỡi cày, lưỡi liềm, lưới dao, lưỡi cưa, lưỡi câu.
- Miệng: miệng hố, miệng giếng, miệng hang, miệng túi, miệng chén.
- Cổ: Cổ tay, cổ chân, cổ chai, cổ lọ
- Tay: tay áo, tay sai, tay chơi, tay quay, tay tre, tay buôn, tay trống...
- Lưng: lưng núi, lưng đèo, lưng đồi, lưng cơm...
Cái gì chặt không đứt
Bứt không rời
Phơi không khô
Đốt không cháy ?
gấc
Trả lời:
a) Cách xưng hô: đầy tình cảm thân ái.
Cương xưng hò với mẹ lễ phép, kính yêu. Mẹ Cương trao đổi chuyện trò với con dịu dàng, âu yếm.
b) Cử chỉ trong lúc trò chuyện: đầy tình cảm, thân ái.
Cử chỉ của mẹ Cương: Bà cảm động xoa đầu Cương và bảo…
Cử chỉ của Cương: Em nắm lấy tay mẹ thiết tha......
Đề bài : Loài cây em yêu
1. Tìm hiểu đề và tìm ý
a. Giới thiệu đối tượng : loài cây em yêu thích.
b. Loài cây em yêu thích : cây dừa, cây cau, cây tre, cây phượng,…
Lí do yêu thích : có thể từ một kỉ niệm nào đó, người trồng cây quan trọng với em, …
2. Lập dàn bài
a. Mở bài: Giới thiệu loài cây em yêu thích và lí do em yêu thích loài cây đó.
b. Thân bài:
- Nêu các đặc điểm tiêu biểu của cây: hình dáng, màu sắc, hoa trái, lợi ích,…
- Ý nghĩa, vai trò của cây trong đời sống con người và trong cuộc sống của em.
- Sự chăm sóc của em với loài cây đó.
c. Kết bài: Tình cảm của em với cây.
3. Viết đoạn văn
Tham khảo :
- Mở bài:
Những ngày hè oi bức, sân trường em được rợp mát bởi những hàng phượng, bàng rủ lá. Một màu xanh xanh khi ngẩng lên nền trời trong veo, màu xanh mây trời hòa lẫn xanh lá. Loài cây mà em yêu thích - cây phượng đã bắt đầu chấm chấm những cánh phượng đỏ giữa trời xanh.
- Kết bài:
Phượng gắn bó với chặng hành trình cắp sách đến trường của bao thế hệ học sinh. Bao kỉ niệm tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng của em đều đi bên cạnh cây phượng. Em mong sao phượng sẽ luôn đồng hành cùng các thế hệ đi sau, và đó luôn là kỉ niệm đẹp mỗi khi nhớ về.
còn viết bài bn tự nghĩ nha, hk tốt ^^
GỢI Ý DÀN BÀI
A. Mở bài: Giới thiệu về loài cây em yêu.
B. Thân bài:
1. Biểu cảm về các đặc điểm của cây:
- Em thích màu của lá cây...
- Cây đơm hoa vào tháng... và hoa đẹp như...
- Những trái cây lúc nhỏ... lúc lớn... và khi chín... gợi niềm say xưa hứng thú ra sao?
- Miêu tả lại niềm thích thú khi được hái những trái cây và thưởng thức nó.
- Mỗi khi mùa quả qua đi, trong em lại nhóm lên một cảm giác đợi mong mùa quả mới như thế nào?
- Với riêng em, em thích nhất đặc điểm gì ở loài cây đó?
2. Có thể kể một kỉ niệm sâu sắc của bản thân với loài cây trên (ví dụ: Kỉ niệm đầu tiên khiến em yêu thích loài cây đó...).
C. Kết bài: Khẳng định lại tình cảm yêu quý của em với loài cây.
Ngay cuối khu vườn nhà em là những cây dừa to lớn được ông em trồng từ rất lâu rồi. Thân dừa to và nhỏ dần trên đỉnh cây, trên thân có những đường vòng xếp đều khắp thân cây như chia thân ra làm nhiều phần.
Cây có những tán lá tản đều thành vòng tròn, nhìn từ xa như chiếc ô xanh khổng lồ che mát cho cả khu vườn. Lá dừa có kích thước khá ta nhưng trên thân lá lại được chia ra làm nhiều nhánh lá nhỏ xếp đều hai bên. Bởi vậy, dưới tán dừa luôn có một bóng mát để em ngồi hóng mát những trưa hè nóng nực. Những trái dừa mọc thành từng buồng một, lúc lỉu trên cành như đàn lợn con. Quả dừa non ban đầu có vỏ màu xanh ngọc, bên trong là lớp cùi non mềm dẻo như thạch, nhưng khi quả càng lớn dần và phát triển thì lớp cùi càng cứng hơn, nước dừa cũng ngon hơn.
Nước dừa là một thức uống rất được ưa chuộng trong những ngày hè. Hơn thế nữa, trái dừa còn mang nhiều giá trị dinh dưỡng nên được sử dụng rất thông dụng trong cuộc sống. Cùi dừa non rất mềm và thơm nên có thể ăn kèm khi uống nước dừa. Khi già có thể nạo nhỏ để kho cá, kho thịt, làm mứt hoặc nấu chè. Em thích nhất là ăn món chè đỗ đen mẹ nấu, có một ít nước dừa, thêm vào sợi dừa nạo nhỏ. Hương vị thơm thơm, ngậy ngậy của dừa cùng vị bùi của đỗ là đồ ăn không thể thiếu vào mùa hè oi bức.
Em rất yêu thích cây dừa, em tự nhủ sẽ cố gắng chăm sóc cây thật tốt để gia đình có những mùa dừa trĩu quả.
em tham khảo nhé :
Dừa là loài cây quen thuộc ở nhiều miền quê, nhà em cũng có hàng dừa xanh tươi. Không biết cây dừa xuất hiện từ khi nào chỉ biết rằng năm nào cây cũng cho những quả dừa tươi ngon ngọt.
Cây dừa thường được trồng thành hàng nhưng cũng có những cây trồng riêng lẻ. Mỗi cây dừa cao tầm 15 đến 20 mét, nhìn từ xa đã thấy cao vút và rất nổi bật. Gốc cây dừa có nhiều rễ xù xì, thân cây có từng mắt cách nhau khoảng một gang tay người lớn.
Thân cây dừa đặc trưng, gốc cây to nhưng càng lên cao càng nhỏ lại. Lá dừa chỉ mọc trên ngọn cây, mỗi cây khoảng 15 đến 20 lá có tên gọi khác là tàu dừa. Mỗi khi có gió thổi tàu dừa lay động nghe rất vui tai. Đến mùa ra hoa, hoa dừa mọc thành từng chùm màu trắng hệt như hoa cau, mùi thơm dễ chịu. Chỉ sau một thời gian ngắn dừa sẽ kết quả thành từng buồng, mỗi buồng thường có khoảng 10 đến 15 trái.
Cây dừa trung bình cho ba đến bốn buồng. Cây dừa thường cho quả quanh năm. Quả dừa khi còn non có màu xanh, khi về già sẽ có màu vàng, những quả dừa xanh cho nước ngon hơn. Mỗi quả dừa thường có 3 lớp bảo vệ sọ dừa. Khi bổ ra bên trong là nước dừa rất ngọt và mát, lớp cơm dừa màu trắng tinh, ăn có vị béo.
Cơm dừa thường được dùng để làm kẹo dừa hoặc ép lấy dầu. Cây dừa rất có ích với con người, nước dừa giải khát tốt cho sức khỏe, cơm dừa dùng để lấy tinh dầu. Các bộ phận của cây dừa đều có những công dụng riêng.
Mùa hè được ngả mình nghỉ trưa dưới bóng dừa và uống những dòng nước dừa mát lạnh, ngọt ngào là điều thú vị nhất đối với em. Đây là loài cây em rất yêu quý và sẽ bảo vệ để năm nào cũng được thưởng thức thứ nước giải khát đồng quê này.
- Biện pháp nghệ thuật:
+ Điệp cấu trúc "con đi"
+ Nhân hóa "Ruột gan bầm lại thương con mấy lần".
- Tác dụng:
+ Tạo nhịp điệu cho câu thơ
+ Giúp sự vật nhân hóa "ruột gan" trở nên có hồn, mang những nét hành động, cảm xúc, tình cảm như của con người.
+ Thể hiện những vất vả khó nhọc, những hi sinh lớn lao mà bầm phải trải qua, mà mẹ phải chịu đựng để lo cho con, để nuôi lớn con thành người. Qua đó, tác giả bày tỏ lòng biết ơn, thành kính sâu sắc đối với người mẹ thân yêu.
Phương thức biểu đạt chính của bài thơ bầm ơi là Biểu Cảm
Trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của thời gian Hà Nội vẫn mang trong mình những nét đẹp cổ thủ đô văn hiến. Và nhắc đến câu chuyện về Hà Nội, dấu ấn đầu tiên của đọng lại trong chúng ta có lẽ là hồ Gươm nơi còn lưu giữ câu chuyện về người anh hùng dân tộc Lê Lợi trả gươm rùa thần, trong lòng hồ Tả Vọng. Chuyện kể rằng:
Vào thế kỉ XV, dưới ách đô hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu muôn vàn khổ cực. Mọi người căm hận chúng đến tận xương tủy. Nghĩa quân Lam Sơn, lúc ấy đang trong buổi đầu phất cờ khởi nghĩa, lực lượng còn yếu, bị thua trận nhiều. Long Quân biết chuyện quyết đinh cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để dẹp giặc.Hồi ấy, ở Thanh Hóa có người dân chài tên là Lê Thận. Một đêm nọ, đi đánh cá ở bờ sông vắng, sau hai lần quang chài Thận chỉ kéo được ột thanh sắt. Đến lần thứ 3, vẫn là thanh sắt đó Thận mới soi đèn xem kĩ, thì phát hiện ra đó là một lưỡi gươm bèn đem về nhà.
Về sau, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn chàng hăng hái, gan dạ không hề sợ nguy hiểm. Một lần Lê Lợi đến thăm nhà Thận. Trong căn nhà tranh, bỗng dưng chủ tướng thấy có ánh sáng lạ tỏa ra từ một góc nhà, ông đến xem thì thấy đó là ánh sáng của lưỡi gươm trên đó có hai chữ Thuận Thiên. Nhưng lúc ấy tất cả mọi người vẫn không hề biết đó là gươm báu.
Một lần bị giặc đuổi, Lê Lợi cùng tướng sĩ phải rút chạy mỗi người một ngả. Khi đi ngang qua môt khu rừng Lê Lợi bỗng thấy trên ngọn cây đa có ánh sáng lạ. Ông trèo lên cây mới biết đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Lúc này, Lê Lợi nhớ đến lưỡi gươm có khắc chữ Thuận Thiên ở nhà Thận, ông dắt chuôi gươm bên mình. Khi trở về bèn lệnh cho Lê Thận mang lưỡi gươm đến và hỏi nguồn gốc thanh gươm. Lúc ấy, Thận mới từ tốn kể lại câu chuyện ba lần vớt được thanh gươm nơi bến sông vắng. Biết đây là ý trời, Lê Thận dâng thanh gươm cho chủ tướng, mà tâu rằng: “ Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc.”
Sau khi mọi người biết đó là gươm thần, nghĩa quân Lê Lợi ngày một nhuệ khí . Quân ta ra trận nào, thắng trận ấy bách chiến bách thắng. Tiếng tăm của nghĩa quân ngày được vang xa, binh lực của quân ta cũng tăng lên gấp bội. Nghĩa quân đánh đâu thắng đấy, chiếm được nhiều kho lương thực để nuôi nghĩa quân và phân phát cho nhân dân. Cứ như thế quân ta nhanh chóng quét sạch kẻ thù, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi của nước ta. Cuộc sống nhân dân bình yên, no ấm.
Đuổi được giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua. Trong một lần ngự uyển quanh hồ Tả Vọng, Long Vương đã sai Rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi thuyền rồng của vua đi đến giữa hồ, vua thấy thanh gươm bên mình tự nhiên động đậy. Cùng lúc đó, hai bên mạn thuyền bỗng dưng có con sóng lớn, vua thấy thế bèn sai quân dừng thuyền lại. Rùa vàng liền tiếng đến phía vua và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”. Nghe Rùa vàng nói, vua hiểu ý, bèn lấy thanh gươm bên mình hướng về phía rùa vàng. Rùa vàng ngay lập tức há miệng đỡ lấy thanh gươm và từ từ chìm xuống nước.
Từ đó về sau hồ Tả Vọng có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Tên gọi ấy gắn liền với một vũ khí giàu chất chính nghĩa, tính nhân dân và chiến thắng vè vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng người anh hùng dân tộc Lê Lợi.
Nước Nam đang yên bình thì giặc Minh kéo quân sang đô hộ. Chúng ngang nhiên làm nhiều điều bạo ngược và xem dân ta như cỏ rác. Lòng dân vô cùng oán hận.
Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân nổi dậy, nhưng thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị thất bại. Dân ta vẫn làm thân trâu ngựa. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn chiếc gươm thần để làm vũ khí đánh giặc cứu nước.
Một đêm nọ, ở tỉnh Thanh Hóa, có người dân chài tên là Thận đi thả lưới. sau khi quang lưới xuống bến thì kéo lên được một thanh sắt. Lê Thận quang thanh sắt ấy đi rồi đến chổ khác để thả lưới. Lần tứ hai kéo lưới cũng chỉ được một thanh sắt, chàng lại ném xuống sông. Lần thứ ba cũng thế, thanh sắt ấy lại mắc vào lưới. Lấy làm ngạc nhiên, Thận mồi lửa rọi vào thanh sắt nhìn kĩ thì nhận ra một lưỡi gươm. Lê Thận mừng rỡ đem lưỡi gươm về nhà. Sau đó, Thận gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Khát vọng hòa bình và lòng yêu nước đã làm Thận hăng hái, gan dạ, không sự nguy hiểm trước kẻ thù hung hãn. Chủ tướng Lê Lợi và một số tùy tùng đến nhà Lê Thận để bàn việc nước. Căn nhà nhỏ tối om, đột nhiên lưỡi gươm sáng rực lên một góc nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lưỡi gươm lên xem có hai chữ “Thuận Thiên” nhưng không biết đó là báu vật. Rồi mọi người trở về với việc đánh giặc nhưng luôn bị thất bại.
Một hôm, bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng mỗi người một ngả chạy vào rừng. Lúc đi qua khu rừng nọ, Lê Lợi thấy có ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Ông trèo lên thì phát hiện một chuỗi gươm nạm ngọc. Lê Lợi lấy chuôi gươm giắt vào thắt lưng và liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận.
Mấy hôm sau, Lê Lợi gặp các tướng cùng Lê Thận và kể lại cho mọi người nghe về chuôi gươm. Khi đem tra chuôi gươm vào lưỡi gươm thì vừa vặn như in.
Lê Thận mừng rỡ, nâng gươm lên ngang đầu nói với Lê Lợi:
- Đây là Trời phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm này để báo đền tổ quốc.
Từ đó, Nghĩa quân Lam Sơm mỗi ngày một thêm nhuệ khí. Lê Lợi, gươm thần cũng nghĩa quân Lam Sơn tung hoành ngang dọc. Trận nào cũng mang về chiến thắng, quân minh bạt vía kinh hồn. Uy thế thuộc về nghĩa quân Lam Sơn, binh lực mỗi ngày một lớn mạnh. Nghĩa quân xông xáo đi tìm giặc, chiếm được nhiều kho lương thực của giặc để nuôi quân. Gươm thần mở đường cho nghĩa quân đánh tràn vô tận, đánh cho đến khi đất nước sạch bóng quân thù. Đất nước thái bình, Lê Lợi lên làm vua.
Một năm sau, Lê Lợi ngự thuyền rồng đi dạo quanh hồ Tả Vọng. Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi thanh gươm thần. Khi thuyền tiến ra giữa hồ, Rùa Vàng nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước, vua ra lệnh cho thuyền đi chậm lại. Đứng ở mạn thuyền, vua thấy thanh gươm thần đeo bên người tự nhiên lay động. Rùa Vàng nhô đầu lên và nói:
- Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Vua hiểu ý liền nâng thanh gươm về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, Rùa Vàng há miệng đớp lấy thanh gươm rồi lặn xuống nước. Gươm và Rùa đã chìm xuống đáy hồ nhưng ánh sáng vẫn còn le lói dưới mặt nước trong xanh.
Từ đó, hồ Tả Vọng bắt đầu mang tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. Một tên gọi gắn liền với một vũ khí giàu chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Có lẽ đứng trước hồ Hoàn Kiếm thì em cũng nhớ đến gươm thần quý báu, nhớ đến cuộc chiến oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn với những vị tướng hiền tài đã cứu nước cứu dân. Em càng tự hào về đất nước, về lịch sử của dân tộc mà truyền thuyết để lại. Em mong sao Trái Đất hôm nay và mai sau mãi mãi hòa bình.