lập dàn ý cho bài văn nghị luận về xã hội ngày càng hiện đại, hối hả, vội vã khiến cho bữa cơm gia đình Việt có phần bị mai một
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
- Giới thiệu vấn đề: Trong xã hội hiện đại, với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và nhịp sống hối hả, thói quen và giá trị truyền thống đang dần bị thay đổi.
- Dẫn dắt vào vấn đề chính: Một trong những điều bị ảnh hưởng rõ rệt là bữa cơm gia đình, vốn là nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt.
- Nhịp sống hối hả và bận rộn
- Áp lực công việc: Thời gian làm việc kéo dài, ít có thời gian cho gia đình.
- Sự phát triển của công nghệ: Thói quen sử dụng điện thoại, máy tính trong bữa ăn.
- Thay đổi trong thói quen ăn uống
- Tiêu thụ đồ ăn nhanh và thực phẩm chế biến sẵn: Thực phẩm tiện lợi nhưng thiếu sự gắn kết và dinh dưỡng.
- Thói quen ăn uống không đồng bộ: Các thành viên trong gia đình thường ăn ở những thời điểm khác nhau.
- Tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa
- Lối sống đô thị: Áp lực công việc và sự thay đổi trong lối sống.
- Thay đổi trong cấu trúc gia đình: Gia đình ít người, sự phân tán của các thế hệ.
- Sự thay đổi trong giá trị văn hóa
- Ảnh hưởng của toàn cầu hóa: Sự xâm nhập của các nền văn hóa khác, thay đổi trong thói quen ăn uống.
- Những thay đổi trong quan niệm về thời gian và ưu tiên: Khả năng chi phối của các yếu tố bên ngoài.
- Mất đi sự gắn kết gia đình
- Giảm tương tác và trao đổi: Thiếu thời gian trò chuyện, chia sẻ trong bữa ăn.
- Ảnh hưởng đến mối quan hệ gia đình: Tình cảm giữa các thành viên có thể bị ảnh hưởng.
- Ảnh hưởng đến sức khỏe
- Tăng nguy cơ mắc bệnh: Do tiêu thụ thực phẩm không cân bằng, ít chất dinh dưỡng.
- Hậu quả tâm lý: Stress và thiếu sự hỗ trợ tinh thần từ gia đình.
- Thay đổi thói quen và tổ chức lại thời gian
- Lên kế hoạch cho bữa ăn gia đình: Đặt bữa cơm là thời gian quan trọng trong ngày.
- Giảm thời gian sử dụng thiết bị điện tử trong bữa ăn: Tạo môi trường tương tác tích cực.
- Khuyến khích thực phẩm tự nấu
- Tăng cường sử dụng thực phẩm tươi sạch: Hạn chế thực phẩm chế biến sẵn.
- Gắn kết việc nấu ăn với gia đình: Cùng nhau chuẩn bị và thưởng thức bữa ăn.
- Tóm tắt vấn đề và giải pháp: Nhấn mạnh tầm quan trọng của bữa cơm gia đình và những giải pháp cần thiết để gìn giữ giá trị truyền thống.
- Khuyến khích hành động: Đề xuất mọi người hãy nỗ lực giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống hiện đại, để bảo vệ và phát huy sự gắn kết gia đình.
Ý kiến: "Văn học nghệ thuật là nơi nuôi dưỡng tình cảm thẩm mỹ, giữ gìn và phát triển chất nghệ sĩ nơi tâm hồn."
Giới thiệu:
Văn học và nghệ thuật không chỉ là những hình thức giải trí mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho tâm hồn con người. Chúng không chỉ giúp con người thư giãn mà còn nuôi dưỡng tình cảm thẩm mỹ, làm phong phú tâm hồn và giữ gìn chất nghệ sĩ bên trong mỗi người. Qua những trải nghiệm cá nhân với văn học, ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng sâu rộng của văn học nghệ thuật đến tâm hồn và cảm xúc của con người.
Chứng Minh Qua Trải Nghiệm Văn Học:
1. Khám Phá Những Tác Phẩm Văn Học Để Nuôi Dưỡng Tình Cảm Thẩm Mỹ:
Khi đọc các tác phẩm văn học, từ những câu chuyện cổ điển như "Chiến Tranh và Hòa Bình" của Leo Tolstoy đến những tác phẩm hiện đại như "Người Đua Diều" của Khaled Hosseini, ta không chỉ được thưởng thức những câu chữ đẹp đẽ mà còn trải nghiệm sâu sắc những tình cảm và giá trị nhân văn. Ví dụ, trong "Chiến Tranh và Hòa Bình", sự mô tả tinh tế về các nhân vật và bối cảnh lịch sử không chỉ thể hiện sự sâu sắc của tình cảm mà còn giúp người đọc cảm nhận được chiều sâu của tâm lý nhân vật. Điều này nuôi dưỡng sự cảm nhận thẩm mỹ, giúp người đọc nhìn nhận và đánh giá cuộc sống với cái nhìn đa chiều và sâu sắc hơn.
2. Văn Học Giúp Phát Triển Chất Nghệ Sĩ Trong Tâm Hồn:
Văn học không chỉ là việc đọc và cảm nhận mà còn là quá trình nuôi dưỡng và phát triển cảm xúc nghệ thuật. Khi tiếp xúc với các tác phẩm văn học, người đọc thường cảm thấy được kích thích sáng tạo và mong muốn thể hiện bản thân qua nghệ thuật. Ví dụ, khi đọc thơ của Xuân Diệu, với những hình ảnh tươi đẹp và ngôn từ đầy cảm xúc, ta có thể cảm nhận được sự tinh tế và bay bổng của nghệ thuật. Sự cảm nhận này thúc đẩy người đọc không chỉ yêu thích thơ ca mà còn có thể tạo ra những tác phẩm nghệ thuật của riêng mình, nuôi dưỡng chất nghệ sĩ trong tâm hồn.
3. Văn Học Giúp Giữ Gìn Và Phát Triển Tinh Thần Nghệ Thuật:
Các tác phẩm văn học không chỉ là những sản phẩm của nghệ thuật mà còn là phương tiện để truyền tải các giá trị văn hóa và nghệ thuật qua các thế hệ. Những câu chuyện, bài thơ và tiểu thuyết truyền tải các quan điểm, cảm xúc và kinh nghiệm sống phong phú. Khi đọc "Đất Rừng Phương Nam" của Đoàn Giỏi, người đọc không chỉ được trải nghiệm cuộc sống của người dân miền Nam mà còn cảm nhận được sự hào hùng và tinh thần chiến đấu. Điều này giữ gìn và phát triển tinh thần nghệ thuật, khuyến khích người đọc khám phá và trân trọng các giá trị văn hóa và nghệ thuật.
4. Ảnh Hưởng Của Văn Học Đến Tâm Lý và Cảm Xúc:
Văn học có khả năng tác động mạnh mẽ đến tâm lý và cảm xúc của con người. Khi đọc những tác phẩm như "Mẹ Ghẻ" của Ngô Tất Tố, người đọc có thể cảm nhận được sự đau khổ, bất công và hy vọng của các nhân vật. Điều này không chỉ giúp người đọc hiểu hơn về những hoàn cảnh khó khăn mà còn phát triển khả năng đồng cảm và cảm nhận sâu sắc. Từ đó, văn học giúp người đọc nuôi dưỡng tình cảm thẩm mỹ và cảm xúc nghệ thuật một cách tự nhiên và chân thật.
Kết luận:
Văn học và nghệ thuật thực sự là nơi nuôi dưỡng tình cảm thẩm mỹ và giữ gìn chất nghệ sĩ trong tâm hồn. Qua các tác phẩm văn học, ta không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ và hình ảnh mà còn phát triển được khả năng cảm nhận và sáng tạo nghệ thuật. Những trải nghiệm này không chỉ làm phong phú tâm hồn mà còn giúp con người sống một cuộc đời đầy ý nghĩa và cảm xúc. Vì vậy, văn học nghệ thuật chính là nguồn cảm hứng vô tận, nuôi dưỡng và phát triển chất nghệ sĩ bên trong mỗi chúng ta.
Bạn tham khảo bài văn nhé :
“Tiếng nói của văn nghệ”, tiếng nói của thơ ca chưa bao giờ là những lời dễ dãi, nhạt nhòa. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết: "Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc...". Ý kiến ấy gợi cho ta bài học sâu sắc về việc tiếp nhận văn nghệ nói chung và thơ ca nói riêng.
Thơ ca là tiếng nói của tình cảm, tâm trạng, cảm xúc con người. Học giả Lê Quý Đôn từng viết: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần” là bởi thế. Thơ bao giờ cũng ngắn gọn, hàm súc nên ngôn ngữ thơ cô đọng, lời ít ý nhiều. Không chỉ vậy, nhà thơ thường dùng nhiều biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, đối lập, ... để thể hiện tình ý sâu xa của mình. Không gian, thời gian trong thơ là không gian, thời gian của cảm xúc, tâm tưởng nên trong thơ có nhiều khoảng trống, khoảng trắng đòi hỏi sự liên tưởng phong phú và đồng cảm của người viết. Bởi vậy nên, dọc một bài thơ thì dễ mà hiểu được thơ, cảm được thơ thật khó.
“Một bài thơ hay” chẳng những mang đến cho người đọc những tình cảm thẩm mĩ đẹp đẽ mà còn có hình thức thể hiện độc đáo sáng tạo. Để cảm nhận đầy đủ những lớp nghĩa của thơ ca, cảm nhận vẻ đẹp của hình thức thơ, bạn đọc phải dụng công rất nhiều. Do vậy, đọc một bài thơ hay “không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giây đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ”. Mặt khác, thơ ca là tiếng nói của tâm hồn bởi vậy, người đọc phải có được sự đồng cảm, đồng điệu vể tiếng lòng với nhân vật trữ tình, với tác giả. Do đó, người đọc thơ không chỉ đọc trong tư thế khám phá những hình thức thẩm mĩ của bài thơ mà phải đọc với tất cả tâm hồn: “Tất cả tâm hồn chúng ta đọc...".
Trong chương trình văn học Việt Nam lớp 8 và 9, bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh xứng đáng là một “bài thơ hay” đáng để ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc...".
Nhà thơ Tế Hanh được bạn đọc biết đến bắt đầu từ phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Ngay từ những ngày đầu sáng tác, thơ của ông đã gắn bó tha thiết với làng quê. Trong những năm sau đó, dù mở rộng về đề tài nhưng nhà thơ vẫn được biết đến nhiều nhất qua những vần thơ viết về quê hương. Và “Quê hương” là một bài thơ như thế.
Mở đầu bài thơ của mình, nhà thơ có hai câu thơ “giới thiệu” khá lạ:
“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”.
Đó là lời thơ giới thiệu về nghề nghiệp và vị trí của làng: “làm nghề chài lướị”, bốn bề là nước “cách biển nửa ngày sông”. Hai câu thơ giới thiệu về làng rất ngắn gọn chứa đựng những lời tâm tình chân thành “làng tôi vốn...”. Nhưng đằng sau chữ “vốn” ta nghe có cả một bề dày truyền thống lâu đời gắn bó với biển cả. Để đến câu thơ sau - một câu thơ tám chữ mà có đến năm chữ nhắc đến ý nghĩa “nước”: “nước”, “bao vây”, “biển”, “sông” - thì người đọc có cảm giác đây là lời xướng giọng cao cho một bản trường ca về cuộc sống làng chài.
Sau lời “trần tình” về làng, nhà thơ phác nên bức tranh cảnh dân chài ra khơi đánh cá:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”.
Trên cái nền thuận hòa của trời biển thiên nhiên “Trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng” là vẻ đẹp tuyệt vời của con người, con thuyền và những cánh buồm.
Nhắc đến người dân chài, nhà thơ nhắc đến “dân trai tráng”, đó là những chàng trai khỏe mạnh, rắn rỏi. Có vậy, họ mới vững vàng đầu sóng ngọn gió để chỉ huy những con thuyền và những cánh buồm mạnh mẽ thế này:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
Hình ảnh con thuyền được so sánh với con tuấn mã cùng hành động hăng hái “phăng” (mái chèo), “mạnh mẽ” “vượt” (trường giang) đã diễn tả khí thế băng lối dũng mãnh của con thuyền ra khơi. Câu thơ tả thuyền nhưng còn làm toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng tráng ở những người dân chài nơi biển cả.
Theo lối băng đi của những thân thuyền, cánh buồm căng gió biển quen thuộc trở nên thơ mộng và hùng tráng. Trong câu thơ “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”, nhà thơ đã có cách so sánh rất kì lạ. Khi so sánh, ta thường so sánh vật vô hình với vật hữu hình để cụ thể hóa đối tượng. Nhưng ở đây, Tế Hanh so sánh vật hữu hình “cánh buồm” với một vật vô hình “mảnh hồn làng”. Điều đó tạo một ấn tượng đặc biệt. Hồn làng - hồn của quê hương - đã hóa thân vào những cánh buồm để lướt về nơi biển cả. Chẳng những thế, ở câu thơ sau, cánh buồm còn được nhân hoá: "Rướn" như một sinh thể biết cử động đang rướn cao thân trắng, thâu góp gió biển của quê hương. Hình ảnh ấy sống động và gợi cảm biết bao.
Đoạn thơ vừa là cảnh thiên nhiên, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống.
Sau ngày ra khơi đầy hào khí, đoạn thuyền đánh cá trở về trong niềm hân hoan chào đón của dân làng:
“Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”.
Tác giả không đi vào chi tiết tả cụ thể một đối tượng nào mà tả chung, gợi không khí cả làng. Đó là sự ồn ào, náo nức, là không khí tấp nập, vui vẻ, rộn ràng, thoả mãn. Câu thơ "nhờ ơn trời...” như một tiếng reo cảm tạ đất trời đã sóng yên, biển lặng để người dân chài trở về an toàn với cá đầy ghe. Khổ thơ là bức tranh lao động náo nhiệt đầy ắp niềm vui và sự sống.
Bên cạnh không khí ồn ào, tấp nập của dân làng, khổ thơ sau như là một góc lắng của không gian để những người dân đi biển và những con thuyền có thể nghỉ ngơi:
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ".
Hình ảnh trai tráng và con thuyền sau chuyến đi biển.
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng" là một câu tả thực. Màu “rám nắng" là minh chứng cho nhiều chuyến đi biển đầy thử thách, cho sự lành mạnh, đẹp đẽ về thể chất của “dân trai tráng” vùng chài. Đặc biệt, trong câu thơ sau, nhà thơ đã sử dụng phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tạo ra những ấn tượng rất lạ: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Ở những người dân chài với làn da nhuộm nắng, gió, thân hình vạm vỡ toát lên một vẻ đẹp mặn mòi của biển cả. Trong động từ “nồng thở” có một chuyển động rất mạnh mẽ, khỏe khoắn. Và “vị xa xăm” ấy là hương vị của muối biển, gió biển, hồn biển... dạt dào, khoáng đạt. Hình ảnh thơ vừa chân thực vừa lãng mạn nâng những người “dân chài lưới” lên tầm vóc của những anh hùng.
Bên cạnh hình ảnh rất đẹp, rất khỏe của người đi biển là hình ảnh tinh tế cùa những con thuyền:
“Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”.
Con thuyền nằm lặng im nghỉ ngơi trên bến sau bao vật lộn nhọc nhằn với sóng gió. Nhà thơ dùng phép nhân hóa “mỏi” để diễn tà trạng thái im lìm, lặng lẽ của những con thuyền nằm trên bến. Không chi vậy, tiếp tục dùng phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác nhà thơ đã thổi hồn vào đoàn thuyền: “Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Trạng thái nằm lặng im cùa thuyền tĩnh lặng đến mức có thể “nghe” được những chuyển động tinh vi nhất cùa từng thớ gổ “chất muối thấm dần trong thớ vỏ”. Con thuyền đã được thổi hồn để trở thành một thành viên của làng biển. Câu thơ gợi cảm và mang đầy cảm hứng lãng mạn.
Đến đây, nhà thơ không sao nén nổi tiếng nhớ quê hương. Tế Hanh đã trực tiếp nói nỗi nhớ làng quê khôn nguôi của mình:
"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”.
Nước xanh, cá bạc, buồm, thuyền, mùi nồng mặn. Đó là màu sắc, là hình ảnh, là hương vị của quê hương đó...! Đặc biệt, câu thơ cuối của bài: "Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá" giản dị, tự nhiên và rất chân thành, “mùi nồng mặn” là mùi vị đặc trưng của quê hương là hương vị lao động. Chính vì vậy, bài thơ đã làm hiện lên hình ảnh quê hương trong sáng, khoẻ khoắn biết nhường nào.
Viết “Quê hương”, ngòi bút miêu tả của Tế Hanh vô cùng bay bổng dạt dào cảm hứng lãng mạn. Bài thơ có những hình ảnh so sánh đẹp đẽ, những thủ pháp nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác tinh tế, gợi cảm.
Tiếp nhận văn học, văn nghệ không đơn giản như ta đón nhận một vật trao tay, đó thực sự là một quá trình khổ công nhưng đầy thú vị. Sau mỗi lần đọc lại, chiêm nghiệm lại về một bài thơ hay ta lại tìm ra được một hạt ngọc của tình cảm, của nghệ thuật. Vậy nên, có khi nào phải “không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc..." đối với một tác phẩm thơ ca thì ta sẽ lấy đó là niềm hạnh phúc. Và cũng thật vinh dự cho nhà thơ Tế Hanh khi hiến dâng cho đời một bài thơ như thế: “Quê hương”.
Gợi ý làm bài nhé!
MỞ BÀI:
- Tác phẩm thơ là kết tinh những rung cảm của trái tim người nghệ sỹ trước cuộc đời, là tiếng nói của tình cảm, là tấm gương của tâm hồn.
- Thơ tác động đến người đọc bằng tình cảm chân thành, mang đến cho người đọc những liên tưởng, tưởng tượng phong phú...
- Vì vậy khi đọc "một bài thơ hay ta không bao giờ đọc qua một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc không phải chỉ có tri thức (...) Cho đến một câu thơ kia, người đọc nghe thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời trang giấy."
- Đến với bài thơ "Ánh trăng" của nguyễn Duy chúng ta không thể đọc một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ đọc bằng cả tâm hồn của mình.
THÂN BÀI:
1. Giải thích nhận xét:
- Thơ và cuộc sống :
+ Nhà thơ Sóng Hồng đã nhận định về thơ : "Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng" song ông cũng khẳng định "Thơ biểu hiện cuộc sống một cách cao đẹp" => Vậy có nghĩa gốc rễ của thơ vẫn là cuộc sống.
+ Thơ tác động đến của người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc, suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên tưởng tưởng tượng độc đáo.
+ Thơ gắn liền với chiều sâu tâm hồn, thế giới nội tâm sâu kín của con người vừa gắn với cuộc sống khách quan – chiều sâu của sự phong phú trong đời sống xã hội nên thơ có khả năng lay đông tâm hồn người đọc một cách kì diệu.
- Giải thích một bài thơ hay và cách thưởng thức một bài thơ hay:
- Bàn về thơ hay nhà thơ Xuân diệu từng nhận định: Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài. Nói thế có nghĩa một bài thơ hay là hay từ cảm hứng sáng tác, tình ý trong thơ, đến ngôn ngữ rồi mới đến đến nghệ thuật diễn đạt tới người đọc người nghe.
- Bài thơ hay là bài thơ có sự sáng tạo độc đáo về mặt nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.
- Bài thơ hay là bài thơ có khả năng lay động, đánh thức những rung cảm sâu thẳm trong lòng người đọc, có khả năng khơi gợi những tình cảm cao đẹp trong mảnh đất tâm hồn phong phú phù nhiêu của con người.
- Chính vẻ đẹp tình ý sâu xa, và cách biểu hiện độc đáo, sắc sảo mà mà thơ hay có sức lôi cuốn kì lạ khiến người ta không thể đọc qua một lần mà bỏ xuống được, nó khiến người ta phải dừng tay lại trên trang giấy đáng lẽ sẽ lật đi để đọc lại, và lần đọc lại ấy người đọc phải đọc bằng cả tâm hồn chứ không đơn thuần là "xem chữ".
- Vậy thế nào là đọc bằng cả tâm hồn:
+ Thơ là sản phẩm của cảm xúc, được viết ra bằng thứ ngôn ngữ tinh lọc, hàm súc, nhiều tầng, đẹp như hoa nhưng không dễ nhìn thấy trần trụi. Vì vậy để cảm nhận hết được cái hay cái đẹp của một bài thơ ta phải "dừng tay trên trang vở đáng lẽ sẽ lật đi để đọc lại bài thơ, đọc bằng cả tâm hồn", như vậy ta mới thấy hết cái hay, cái đẹp, cái tinh túy sâu sa, sức lan tỏa, lay động cảm xúc của nó.
2. Chứng minh bài thơ "Ánh trăng'' của Nguyễn Duy là một bài thơ hay:
- Đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn duy để có thể cảm nhận hết cái hay của bài thơ ta phải đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác, cảm nhận tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương đất nước, với quá khứ, nét độc đáo trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, trong nghệ thuật biểu hiện.
a. Cái hay và độc đáo của bài thơ ánh trăng trước hết được thể hiện qua nghệ thuật của bài thơ:
- Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ kết hợp tự sự, miêu tả, trữ tình, bình luận rất phù hợp với mạch cảm xúc vừa kể chuyện vừa bộc lộ tình cảm: Đây là câu chuyện về mối tình giữa người và trăng được kể với ba mốc thời gian: Một thời khó khăn, gian khổ.
Trăng và người gắn bó như tri kỉ; thời hòa bình về thành phố:
- Trăng thành người dưng; khi mất điện Trăng hiện ra “im phăng phắc” khiến cho người giật mình. Chính thời gian và hoàn cảnh đã cho người đọc thấy được sự đổi thay từ tri kỉ thành người dưng, và sự đối mặt khi mất điện làm cho nhân vật rưng rưng rồi giật mình.
=> Từ những cảm xúc, những kỉ niệm gần gũi, bình dị ấy mà nâng lên thành lẽ sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ.
- Ngôn ngữ thơ giản dị mộc mạc nhưng giàu hình ảnh, cô đọng, hàm súc, ý tứ sâu sa có sức quyến rũ kì lạ:
- Giọng thơ kể chuyện nhỏ nhẹ, như là một lời tâm tình, trong đó không dùng từ nhân xưng. Nhân vật trữ tình kể chuyện nhưng trong suốt bài thơ không dùng một từ nhân xưng nào. Các câu thơ không chủ ngữ nối tiếp nhau xuất hiện trong toàn bài. Suốt các khổ thơ có một chủ thể như là vô danh đã sống, đã ngỡ, đã về thành phố, đã bật tung cửa sổ, đã ngửa mặt lên nhìn mặt. Chỉ đến dòng thơ cuối cùng mới có một từ nhân xưng. “ta”: "Ánh trăng im phăng phắc/ Đủ cho ta giật mình" Như vậy tác giả đã thành công khi để cho câu chuyện này là chuyện không phải của riêng ai. Có thể là của tôi, của bạn, của các bạn và rộng ra là của chúng ta. Vì mỗi người đều từng có quá khứ của mình.
- Nhan đề bài thơ cũng rất hay:
+ Trong bài thơ tác giả bốn lần nhắc đến vầng trăng:
- Vầng trăng thành tri kỉ
- Cái vầng trăng tình nghĩa
- Vầng trăng đi qua ngõ
- Đột ngột vầng trăng tròn đến cuối bài thơ tác giả dùng:
- Ánh trăng im phăng phắc.
=> Ánh trăng được dùng làm nhan đề. Phải chăng, tác giả muốn đem phần tốt đẹp, phần nhân ái, thủy chung của vầng trăng tượng trưng cho ánh sáng để soi vào chỗ bóng tối, soi rọi vào sự lãng quên, vô tình trong tâm hồn con người, khiến người ta nhìn rõ mình, khiến người ta giật mình để rồi từ đó sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ dù quá khứ đó nhọc nhằn, gian khổ và trần trụi? Đấy là những nét nghệ thuật làm nên sự khác biệt và làm nên thành công của bài thơ "Ánh trăng".
b. Cái hay và độc đáo của bài thơ ánh trăng được thể hiện trong nội dung cảm xúc.
- Ánh trăng là bài thơ hay chứa đựng nội dung tình cảm, cảm xúc phong phú, trong đó có những lớp nghĩa hàm ẩn không dễ nhận ra:
+ Bài thơ là lời thủ thỉ tâm tình của nhà thơ về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính sống gắn bó với thiên nhiên đất nước hiền hậu và bình dị.
+ Bài thơ ánh trăng chứa đựng những suy ngẫm và chiêm nghiệm của nhà thơ về những đổi thay của lòng người trước những biến thiên của cuộc sống.
+ Lời nhắc nhở người đọc về thái đọc sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với quá khứ, đặc biệt là qua khứ nhọc nhằn, gian lao.
=> Với những ý nghĩa đó bài thơ đã tác động sâu sắc đến bạn đọc bao thế hệ, khơi gợi từ tình cảm cá nhân đến cộng đồng, từ quá khứ đến hiện tại. Từ câu chuyện tâm tình giữa người và trăng mà nâng lên thành lẽ sống đẹp: Sống có nghĩa có tình, có trước có sau, ân nghĩa trọn vẹn. Vì thế mà khi đọc bài thơ ta không thể đọc một lần mà bỏ xuống được ta phải dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi...
- Trong bài thơ "Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ. Như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu". "Ánh Trăng" như những dòng sông đỏ nặng phù sa in dấu ấn chạm khắc trong tâm khảm trở thành "những bài ca đi cùng năm tháng" và để lại trong tâm hồn bạn đọc những ấn tượng không bao giờ quên.
KẾT BÀI:
- Mở rộng và nâng cao vấn đề :
+ Thơ cũng như bất cứ thể loại nghệ thuật nào đều có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống.
+ Tiếp nhận một bài thơ hay là quá trình người đọc hòa mình vào tác phẩm để cảm nhận nó. Lúc ấy trái tim người đọc hòa cùng một nhịp với những rung cảm của nhà nghệ sỹ. Qua đó độc giả không chỉ hiểu được tấc lòng của nhà nghệ sỹ đối với cuộc đời mà còn tham gia đồng hành vào quá trình sáng tạo
+ Đọc tác phẩm văn học là ta đang được sống những cuộc đời ta chưa từng được sống và đó là cách bồi dưỡng tâm hồn tình cảm của ta thêm phong phú.
Trong hai câu thơ "Có đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu" của nhà thơ Hữu Thỉnh, cách diễn đạt của tác giả thể hiện sự tinh tế và sáng tạo qua một số điểm đặc sắc:
-
Hình ảnh cụ thể và tượng hình:
- "Đám mây mùa hạ": Đây là hình ảnh quen thuộc, nhưng cách tác giả gợi tả cụ thể khiến cho hình ảnh trở nên sinh động và gần gũi. Đám mây mùa hạ thường gợi lên sự nắng nóng và bầu trời rộng lớn, nhưng ở đây nó lại được đặt trong một bối cảnh khác, mang tính chất chuyển giao mùa.
- "Vắt nửa mình sang thu": Cách dùng từ "vắt" không chỉ đơn thuần mô tả sự di chuyển của đám mây mà còn gợi ra hình ảnh mềm mại và tựa như một sự chuyển mình nhẹ nhàng. Từ "vắt" cũng mang đến cảm giác mơ hồ, như đang ngăn cách một cách tạm thời giữa hai mùa.
-
Chuyển tiếp mùa sắc sảo:
- Câu thơ diễn tả quá trình chuyển giao từ mùa hạ sang mùa thu. Thay vì sử dụng cách diễn đạt thông thường như "mùa thu đến," tác giả chọn cách hình tượng hóa chuyển giao mùa qua hình ảnh đám mây. Điều này tạo ra một sự liên kết tinh tế giữa hai mùa, thể hiện sự chuyển biến một cách tự nhiên và nhẹ nhàng.
-
Tính chất lãng mạn và cảm xúc:
- "Vắt nửa mình" không chỉ mô tả hiện tượng vật lý mà còn mang ý nghĩa cảm xúc, như thể đám mây đang chia sẻ một phần của mùa hè để hòa quyện vào mùa thu. Sự chuyển giao này không chỉ là một sự thay đổi về thời tiết mà còn là một sự chuyển biến trong cảm xúc và trạng thái tâm hồn.
-
Sử dụng hình ảnh và biểu cảm:
- Tác giả sử dụng hình ảnh mây để thể hiện sự chuyển giao mùa một cách lãng mạn và thi vị. Điều này không chỉ tạo ra sự sinh động cho bức tranh thiên nhiên mà còn làm nổi bật tính chất nhạy cảm và sâu lắng của mùa thu.
Cách diễn đạt của Hữu Thỉnh trong câu thơ "Có đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu" rất đặc sắc nhờ vào việc sử dụng hình ảnh cụ thể, sự chuyển giao mùa sắc sảo, và việc thể hiện cảm xúc lãng mạn thông qua hình ảnh đám mây. Những yếu tố này tạo nên một bức tranh thiên nhiên chuyển mình đầy thơ mộng và cảm xúc.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu, một trong những cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, đã để lại dấu ấn sâu đậm với những tác phẩm mang đậm tinh thần nhân văn và sự nhạy cảm nghệ thuật. Trong số các tác phẩm nổi bật của ông, "Gió lạnh đầu mùa" là một tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và phong cách sáng tác của ông. Được viết vào thời kỳ đổi mới, tác phẩm không chỉ gây ấn tượng mạnh mẽ với hình ảnh sắc nét và cốt truyện cuốn hút, mà còn là một bức tranh phản ánh sâu sắc những biến đổi của xã hội và tâm trạng con người.
"Gió lạnh đầu mùa" mở ra một không gian đặc biệt, nơi những diễn biến tâm lý phức tạp và mối quan hệ nhân văn được khám phá một cách tinh tế. Tác phẩm mang đến cho người đọc một cái nhìn chân thực về những giằng xé nội tâm của nhân vật, đồng thời thể hiện sự chuyển mình của xã hội trong bối cảnh lịch sử đầy biến động. Đặc biệt, qua từng trang viết, Nguyễn Minh Châu không chỉ khắc họa sinh động bối cảnh và tâm trạng nhân vật, mà còn gửi gắm thông điệp sâu xa về sự tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và những giá trị nhân bản vĩnh hằng.
Tóm lại, "Gió lạnh đầu mùa" không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về mặt nội dung và hình thức, mà còn là một tác phẩm phản ánh sâu sắc những trăn trở và suy tư của con người trước những thử thách của thời đại. Tính đặc sắc của tác phẩm nằm ở việc khai thác chủ đề về những mảnh đời và số phận trong xã hội, từ đó mở ra một không gian triết lý phong phú và đầy cảm xúc cho người đọc.
Gdhsjsjdgdvdgjtdofyiididyyxiiyxxyixoyoyxoyciyxxoyyoxyoxoyoyxoxyxyoxyoyxoyxoxyoxyoxyooxyxyoxiyxitztutzitisztitixitxkyckyckcyiyciycicycitxdtitdirzryzeyyeyitxtxjtxkkgxfhfjfufufufufydtuuddut7dt7dtt7d7td7dt7tdst77dt7dt7td7tdcyycyfyfyfjhhhbbfdrtyyguooi gkhcjvviibboobuhcuvuvoncfgbbvb