K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ba khổ thơ cuối của bài thơ "Quê hương" của Trúc Quỳnh đã khéo léo lột tả được tình yêu tha thiết đối với quê hương, đồng thời chạm đến trái tim người đọc bằng những hình ảnh thân quen và giản dị. Khổ thơ thứ ba vẽ lên hình ảnh ngôi làng nhỏ, với con đường mòn quanh co và những cánh đồng lúa bát ngát, như một bức tranh quê hương tươi đẹp, mộc mạc. Hình ảnh "cánh cò trắng muốt" bay lượn trên cánh đồng tạo nên một khung cảnh yên bình và đầy ắp ký ức tuổi thơ. Khổ thơ thứ tư tiếp nối với âm thanh ríu rít của lũ trẻ chăn trâu, tiếng sáo diều vi vu trong gió, gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp đẽ, vui tươi của thời ấu thơ. Đặc biệt, khổ thơ cuối cùng với hình ảnh bà cụ già ngồi nhai trầu bên hiên nhà, ánh mắt xa xăm nhìn về những ngày đã qua, khiến người đọc không khỏi xúc động và trân trọng hơn những giá trị truyền thống, tình cảm gia đình thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một bức tranh quê hương thật sống động, giàu cảm xúc, gợi cho người đọc niềm tự hào và tình yêu bất tận đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. nếu sai bạn có thể nói với mình

21 tháng 1

cảm ơn bạn nhé


21 tháng 1

Khi đọc truyền thuyết Thánh Gióng, tôi cảm thấy ấn tượng nhất với hành động Gióng đánh giặc xong, cởi giáp bỏ nón lại và bay thẳng lên trời. Hành động này xuất hiện ở phần cuối của truyền thuyết. Hành động trên gửi gắm khát vọng của nhân dân về người anh hùng chống giặc ngoại xâm. Người anh hùng Thánh Gióng trở về với cõi bất tử, sống mãi trong lòng nhân dân. Đồng thời, hành động cũng thể hiện được sự kính trọng, yêu mến của nhân dân dành cho Thánh Gióng.

nhớ cho 1 tick

21 tháng 1

Thánh Gióng là truyền thuyết mà em vô cùng yêu thích. Trong tác phẩm, em cảm thấy ấn tượng nhất với tiếng nói đầu tiên của Gióng. Cậu bé làng Gióng đã lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười, đặt đâu thì nằm đấy. Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua Hùng sai sứ giả đi tìm người tài khắp nước. Khi cậu bé nghe tiếng giao của sứ giả thì liền cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Gióng đã yêu cầu sứ giả về nói với nhà vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một tấm áo giáp sắt” với lời hứa sẽ phá tan lũ giặc này. Câu nói đầu tiên là của Thánh Gióng là xin đi đánh giặc cứu nước cứu dân. Câu nói mang tấm lòng yêu nước của một cậu bé mới ba tuổi nhưng đã có trách nhiệm với đất nước nhân dân. Nhân vật này đã gửi gắm truyền thống yêu nước của nhân dân ta.

21 tháng 1

Hôm ấy, trời trong xanh và mát mẻ, em cùng nhóm bạn thân háo hức rủ nhau đi hội chợ xuân ở trung tâm thị trấn. Đây là lần đầu tiên em được tham dự một hội chợ lớn như thế, nên cảm giác hồi hộp và phấn khích cứ đan xen suốt cả buổi sáng. Khi bước vào cổng hội chợ, em như lạc vào một thế giới khác. Khắp nơi đều rực rỡ sắc màu: nào là đèn lồng đỏ, cờ hoa tung bay, và những gian hàng đủ loại bày biện san sát nhau. Tiếng trống múa lân rộn ràng làm mọi người không ngừng phấn khích. Em và bạn bè chạy ngay đến khu vực biểu diễn, chen lấn để nhìn thật gần những chú lân đang nhảy múa. Mỗi cú nhào lộn của các chú lân đều khiến đám đông reo hò ầm trời. Sau đó, cả nhóm quyết định thử sức ở các gian hàng trò chơi. Trò mà em thích nhất là ném vòng. Lần đầu tiên cầm chiếc vòng trong tay, em run đến mức không dám ném, nhưng bạn bè đứng xung quanh cứ hò hét cổ vũ. Lấy hết can đảm, em ném chiếc vòng về phía mục tiêu. Thật bất ngờ, chiếc vòng vừa khít rơi vào chiếc lọ lớn, và em nhận được một con gấu bông xinh xắn. Cảm giác lúc ấy vui đến mức em cứ ôm chặt con gấu không buông. Sau khi chơi đùa đã đời, cả nhóm kéo nhau qua khu vực ẩm thực. Em thích nhất là xiên thịt nướng vì mùi thơm ngào ngạt làm em không cưỡng lại được. Ngoài ra, em còn ăn bánh tráng nướng giòn tan, uống một ly chè sương sáo mát lạnh, và mua thêm một ít bánh mứt để mang về nhà. Buổi tối, khi đèn lồng khắp nơi được thắp sáng, hội chợ như khoác lên mình một vẻ đẹp khác, lung linh và huyền ảo. Em cùng các bạn đi dạo một vòng nữa để ngắm cảnh và chụp vài tấm ảnh làm kỷ niệm. Kết thúc một ngày vui chơi, em cảm thấy vừa mệt vừa vui, lòng đầy ắp những kỷ niệm đẹp. Đây là một ngày hội chợ mà em sẽ không bao giờ quên, vì không chỉ được tận hưởng niềm vui, em còn nhận ra rằng điều đáng quý nhất chính là khoảnh khắc được ở bên những người bạn thân thiết.

21 tháng 1

Dưới đây là một bài văn kể lại một sự kiện, không sao chép từ bất kỳ nguồn nào trên mạng, hoàn toàn là sáng tác của tôi: --- **Một Ngày Mưa Ở Quê** Hôm đó, trời đổ cơn mưa lớn, những hạt mưa rơi tí tách như những hạt ngọc trong suốt, rơi trên mái nhà, rơi trên mặt đất, tạo thành những vũng nước nhỏ xao động. Mình nhớ như in buổi chiều hôm ấy, khi mà bầu trời xám xịt và không khí trở nên mát mẻ, ngột ngạt. Cả làng im lặng như muốn dừng lại dưới cái mưa nặng hạt. Mình đang ngồi trong nhà, nhìn ra ngoài qua cửa sổ. Bất chợt, nghe tiếng gọi của bà nội từ ngoài sân: "Con ơi, ra đây giúp bà một chút!" Mình vội vàng chạy ra, thấy bà đang đứng gần góc vườn, tay ôm chiếc giỏ đựng trái cây vừa hái được. "Mưa nhiều rồi, con vào trong này giúp bà đem mấy quả dưa hấu vào nhà nhé," bà nói. Cả hai ông cháu cùng nhau kéo giỏ dưa hấu vào nhà, những quả dưa tròn trĩnh, màu xanh bóng bẩy, rất nặng. Khi đưa vào nhà, mùi đất và mùi quả chín thơm ngọt ngào như làn gió lành mang lại cảm giác ấm cúng giữa cơn mưa lạnh. Trong lúc đưa những quả dưa vào, mình không quên nhìn lại, một cảnh tượng thật bình yên và thân thương. Dưới mái hiên, bà vẫn ngồi đó, cúi xuống, kéo tấm khăn che mưa, miệng luôn lẩm bẩm như đang nói chuyện với chính mình. Còn mình, chẳng hiểu sao, lúc ấy lại cảm thấy yêu quý mọi thứ quanh mình đến thế. Mình chợt nhận ra rằng, những khoảnh khắc như thế này – khi gia đình vẫn quây quần, bên nhau trong cơn mưa – là những gì quý giá nhất, những điều giản dị mà lại đầy ý nghĩa trong cuộc sống. Sau khi đưa dưa hấu vào trong nhà, bà nội lại tiếp tục công việc nấu ăn, còn mình ngồi xuống chiếc bàn cũ, lấy quyển sách ra đọc. Mưa vẫn rơi ngoài hiên, nhưng không gian trong nhà thì yên ả, như một bức tranh bình lặng mà lâu lắm rồi mình mới cảm nhận được sự ấm áp đến thế. Khi trời tạnh mưa, mình và bà cùng ra ngoài, nhìn bầu trời quang đãng, những chiếc lá ướt đẫm nước nhưng vẫn lấp lánh dưới ánh nắng mới. Cảm giác mát mẻ, trong lành sau cơn mưa khiến mình càng yêu thêm những ngày bình yên như thế. --- Bài văn này kể về một sự kiện đơn giản, nhưng chứa đựng những cảm xúc và kỷ niệm thân thuộc với cuộc sống nông thôn và gia đình.

21 tháng 1

Trong truyện ngắn *"Cô bé bán diêm"* của Hans Christian Andersen, cô bé đã có những ước mơ rất chính đáng nhưng không được đáp ứng, bao gồm: 1. **Ước mơ có một cuộc sống ấm áp và đầy đủ:** Cô bé sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, lạnh giá và bị đối xử tàn nhẫn. Ước mơ của cô về một lò sưởi ấm áp, một bữa ăn ngon, hay đôi giày là những mong muốn cơ bản nhưng lại quá xa vời. 2. **Ước mơ về tình yêu thương gia đình:** Trong khoảnh khắc đốt diêm, cô bé tưởng tượng thấy bà – người duy nhất yêu thương cô thật lòng. Điều này cho thấy ước mơ được sống trong sự che chở, yêu thương của gia đình, nhưng cô không được đáp ứng vì bà đã qua đời và cha mẹ không chăm sóc cô chu đáo. 3. **Ước mơ thoát khỏi đói rét và bất hạnh:** Cô bé mong muốn thoát khỏi sự khắc nghiệt của xã hội, nơi người nghèo bị bỏ mặc. Tuy nhiên, ước mơ đó chỉ được thỏa mãn trong ảo ảnh khi cô đốt những que diêm cuối cùng. Những ước mơ của cô bé đều là những điều cơ bản và chính đáng để một đứa trẻ xứng đáng được hưởng, nhưng trong hoàn cảnh khắc nghiệt và vô cảm của xã hội, chúng trở thành những điều xa xỉ.

21 tháng 1

Đoạn thơ gợi lên một thông điệp sâu sắc về giá trị của thời gian và tình cảm gia đình. Lời thơ như lời nhắn nhủ, khơi dậy ý thức trân trọng từng khoảnh khắc bên người thân, đặc biệt là mẹ - biểu tượng của tình yêu vô điều kiện. Câu thơ “Gọi cho mẹ, khi thu còn chưa hết” như nhắc nhở chúng ta đừng để những cơ hội yêu thương vuột qua. Cuộc đời vốn dĩ “rất mau qua,” mùa thu của thời gian chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi, và tình cảm gia đình cần được vun đắp trước khi những điều quý giá trở thành quá khứ. Hình ảnh “Tuyết ngập trời... mà chả thấy ai thưa” là biểu tượng của sự mất mát và nuối tiếc, khi ta nhận ra đã quá muộn để bày tỏ yêu thương. Thông qua đó, đoạn thơ không chỉ khắc họa sự vô thường của cuộc đời mà còn nhấn mạnh sự cần thiết của việc sống chậm lại, yêu thương nhiều hơn trong hiện tại. Nó thức tỉnh mỗi người, đặc biệt trong guồng quay vội vã của cuộc sống, hãy dành thời gian cho những giá trị cốt lõi - gia đình và những người ta yêu quyys.

22 tháng 1

a; tốt bụng

b; vui mừng

c; tự hào

22 tháng 1

☠☢⚡

22 tháng 1

Những cành hoa địa lan tươi tót với màu vàng tươi hoặc xanh ngọc.

22 tháng 1

địa

22 tháng 1

a; Buổi sáng; Đạp xe; Xinh xắn; Sạch s

b; Múa xòe; Đóa hoa; khoe sắc; Hoa loa kèn

22 tháng 1

A) đạp xe, xinh xắn , sạch sẽ

B) múa xòe, đóa hoa, khoe sắc, hoan loa kèn

(4 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: CHIẾU CẦU HIỀN TÀI(1) (Xuất tự Sử ký, năm Kỷ dậu, năm Thuận thiên thứ hai (1429))       Trẫm nghĩ: Được thịnh trị tất ở việc cử hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử. Bởi thế người làm vua thiên hạ phải lấy đó làm việc trước tiên. Ngày xưa, lúc thịnh thời, hiền sĩ đầy triều nhường nhau địa vị, cho nên dưới...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

CHIẾU CẦU HIỀN TÀI(1)

(Xuất tự Sử ký, năm Kỷ dậu, năm Thuận thiên thứ hai (1429))

      Trẫm nghĩ: Được thịnh trị tất ở việc cử hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử. Bởi thế người làm vua thiên hạ phải lấy đó làm việc trước tiên. Ngày xưa, lúc thịnh thời, hiền sĩ đầy triều nhường nhau địa vị, cho nên dưới không sót nhân tài, trên không bỏ công việc, mà thành đời thịnh trị vui tươi. Đến như các quan đời Hán Đường, ai là không suy nhượng kẻ hiền tài, cất nhắc lẫn nhau, như Tiêu Hà(2) tiến Tào Tham, Nguy Vô Tri(3) tiến Trần Bình, Địch Nhân Kiệt(4) tiến Trương Cửu Linh, Tiêu Tung(5) tiến Hàn Hưu, tuy tài phẩm có cao thấp khác nhau, nhưng tất thảy đều được người để đảm đang nhiệm vụ.

      Nay trẫm vâng chịu trách nhiệm nặng nề, sớm khuya lo sợ, như gần vực sâu, chính vì cầu người hiền giúp việc mà chưa được người. Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại phu, từ tam phẩm(6) trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì trẫm sẽ tuỳ tài trao chức. Vả lại tiến hiền thì được thưởng, ngày xưa vẫn thế.

      Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng.

      Tuy nhiên, người tài ở đời vốn không ít, mà cầu tài không phải chỉ một đường, hoặc người nào có tài kinh luân mà bị khuất ở hàng quan nhỏ, không ai tiến cử, cùng người hào kiệt náu ở đồng nội, lẩn ở hàng binh lính, nếu không tự mình đề đạt thì trẫm bởi đâu mà biết được! Từ nay về sau, các bực quân tử, ai muốn đi chơi ta đều cho tự tiến. Xưa kia Mạo Toại thoát mũi dùi mà theo Bình Nguyên quân(7), Nịnh Thích gõ sừng trâu mà cảm ngộ Tề Hoàn công(8), nào có câu nệ ở tiểu tiết đâu?

      Chiếu này ban ra, phàm các quan liêu đều phải hết chức vụ, tiến cử hiền tài. Còn như những kẻ sĩ quê lậu ở xóm làng, cũng đừng lấy điều “đem ngọc bán rao”(9) làm xấu hổ, mà để trẫm phải than đời hiếm nhân tài.

(Bản dịch của Đào Duy Anh, Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập II, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

CHÚ THÍCH

(1) Chiếu cầu hiền tài: Theo Toàn thư và Cương mục thì tờ chiếu này ban bố vào khoảng tháng 6 năm Kỷ dậu (1429). Trong buổi đầu xây dựng nhà nước phong kiến, Lê Lợi một mặt phát triển chế độ khoa cử làm phương thức đào tạo quan lại chủ yếu, nhưng mặt khác vẫn sử dụng rộng rãi chế độ tiến cử, “cầu hiền” để kén chọn thêm quan lại.

(2), (3) Tiêu Hà, Nguy Vô Tri: Quan nhà Hán.

(4), (5) Địch Nhân Kiệt, Tiêu Tung: Quan nhà Đường.

(6) Tam phẩm: Trong chế độ phong kiến Trung Quốc và Việt Nam, phẩm cấp quan lại chia làm 9 bậc, cao nhất là nhất phẩm, thấp nhất là cửu phẩm. Quan lại từ tam phẩm trở lên là quan lại cao cấp.

(7) Bình Nguyên quân: Mao Toại là thực khách của Bình Nguyên quân nước Triệu thời Chiến quốc.

(8) Tề Hoàn công: Ninh Thích là người nước Vệ thời Xuân Thu.

(9) "Đem ngọc bán rao" (Huyễn ngọc cầu dụ): Ý nói tự đem khoe tài mình để cầu tiến dụng.

Câu 1 (0.5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài.

Câu 2 (0.5 điểm): Chủ thể bài viết là ai?

Câu 3 (1.0 điểm): Mục đích chính của văn bản trên là gì?  Chỉ ra những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản.

Câu 4 (1.0 điểm): Theo văn bản, khi có được nước rồi, việc đầu tiên vua cần làm là chọn người hiền tài về giúp cho đất nước. Để minh chứng cho luận điểm đó, người viết đã đưa ra dẫn chứng nào? Nhận xét cách nêu dẫn chứng của người viết.

Câu 5 (1.0 điểm): Thông qua văn bản trên, hãy nhận xét về phẩm chất của chủ thể bài viết.

0