K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Nguyễn thanh long


19 tháng 3

be sol

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ “Bộ đội về làng” của tác giả Hoàng Trung Thông.       Bộ đội về làng *           (Trích)     Các anh về     Mái ấm nhà vui,     Tiếng hát câu cười     Rộn ràng xóm nhỏ.       Các anh về     Tưng bừng trước ngõ,     Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau.     Mẹ...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích chủ đề và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ “Bộ đội về làng” của tác giả Hoàng Trung Thông.

      Bộ đội về làng *

          (Trích)

    Các anh về

    Mái ấm nhà vui,

    Tiếng hát câu cười

    Rộn ràng xóm nhỏ.

 

    Các anh về

    Tưng bừng trước ngõ,

    Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau.

    Mẹ già bịn rịn áo nâu

    Vui đàn con ở rừng sâu mới về.

 

    Làng tôi nghèo

    Mái lá nhà tre.

    Các anh về

    Xôn xao làng bé nhỏ.

 

    Nhà lá đơn sơ

    Tấm lòng rộng mở

    Nồi cơm nấu dở

    Bát nước chè xanh

    Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau.

(Hoàng Trung Thông, NXB Văn nghệ, 1955)

* Bài thơ được viết trong thời kì tác giả tham gia kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954). Nhà thơ Hoàng Trung Thông (1925 – 1993), quê ở Nghệ An, là một cây bút tiêu biểu cho nền thơ cách mạng của nước ta.

1

Bài thơ “Bộ đội về làng” của Hoàng Trung Thông là một khúc ca ngợi ngợi ngọt ngào, xúc động về hình ảnh người lính Cụ Hồ trở về quê hương sau những tháng ngày kháng chiến gian khổ. Qua đoạn trích, tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp gần gũi, thân quen của người lính mà còn thể hiện tình cảm gắn bó, yêu thương sâu nặng giữa bộ đội và nhân dân. Đó cũng chính là chủ đề chính của đoạn thơ: tình quân dân thắm thiết và niềm vui sum họp của người lính cách mạng với quê hương, làng xóm.

Khung cảnh mở đầu đoạn trích là hình ảnh bộ đội trở về trong niềm hân hoan, náo nức của cả làng quê:

“Các anh về
Mái ấm nhà vui,
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ.”

Không khí “rộn ràng”, “vui”, “tiếng hát câu cười” gợi lên một không gian tràn ngập yêu thương, chan chứa niềm vui đoàn tụ. Những người lính không chỉ mang theo súng đạn, mà còn mang theo hơi ấm của sự sống, của hòa bình về với quê hương.

Tình cảm quân dân càng trở nên rõ nét hơn trong những hình ảnh gần gũi, đời thường:

“Lớp lớp đàn em hớn hở chạy theo sau.
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.”

Người mẹ già run run nắm áo, đàn em nhỏ chạy theo ríu rít, những hình ảnh ấy gợi lên không khí thân thuộc như người thân trở về sau bao ngày xa cách. Bộ đội không xa lạ mà là con em của làng, nay trở lại trong vòng tay yêu thương của quê hương. Đó là biểu tượng cho sự đoàn kết, thủy chung giữa nhân dân và cách mạng.

Không chỉ ca ngợi cảm xúc, bài thơ còn khắc họa sự giản dị, mộc mạc của cuộc sống làng quê:

“Nhà lá đơn sơ
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh…”

Dù nghèo, dân làng vẫn mở lòng đón bộ đội bằng những gì chân thành nhất – “nồi cơm nấu dở”, “bát nước chè xanh”, “tấm lòng rộng mở”. Chính sự giản dị đó đã làm nên chất thơ thấm đượm tình người, tình đất.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức gợi. Hình ảnh thơ gần gũi với cuộc sống nông thôn. Cấu trúc điệp từ “các anh về” tạo nên nhịp thơ nhẹ nhàng, tha thiết, đồng thời nhấn mạnh niềm vui sum họp. Tác giả cũng khéo léo sử dụng biện pháp liệt kê (“nồi cơm nấu dở”, “bát nước chè xanh”…), khiến cảnh tượng đời thường trở nên sinh động và đầy cảm xúc. Toàn bài thơ mang âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm chất trữ tình và nhân văn.

Tóm lại, đoạn trích “Bộ đội về làng” là một bài thơ đặc sắc về đề tài người lính và tình quân dân. Bằng những hình ảnh giản dị và cảm xúc chân thành, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người lính cũng như nghĩa tình thủy chung giữa họ với quê hương, dân tộc. Bài thơ như một khúc hát yên bình sau những tháng năm bom đạn – đầy chất thơ, chất đời và chất tình.

Đọc văn bản sau:BÃO VÀ MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ BÃO      Bão, một thiên tai gắn liền với Việt Nam vào hằng năm. Các cơn bão thường gây ra những tổn thất cực kỳ lớn đối với đời sống về vật chất cũng như tinh thần của người dân.     Khái niệm bão là gì?   Bão là một trạng thái nhiễu động của khí quyển mang tính biến chuyển của các tầng khí quyển và xếp vào loại hình...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

BÃO VÀ MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ BÃO

      Bão, một thiên tai gắn liền với Việt Nam vào hằng năm. Các cơn bão thường gây ra những tổn thất cực kỳ lớn đối với đời sống về vật chất cũng như tinh thần của người dân.

     Khái niệm bão là gì?

   Bão là một trạng thái nhiễu động của khí quyển mang tính biến chuyển của các tầng khí quyển và xếp vào loại hình thời tiết cực đoan. Bão là một loại hình tình trạng thời tiết xấu của thiên nhiên gây ra cho con người. Cơ bản, bão là thuật ngữ để chỉ không khí bị nhiễu động mạnh. Có rất nhiều loại bão như: Bão tuyết, bão cát, giông,.. Tuy vậy, bão ở Việt Nam thường được các nhà đài hay mọi người dùng để chỉ bão nhiệt đới (tình trạng thời tiết gió rít mạnh kèm theo mưa nặng hạt và chỉ sinh ra ở những nước gần vùng biển nhiệt đới gió mùa). […]

    Mắt bão là gì?

    Là một phần của bão, mắt bão nằm ở chính giữa trung tâm của bão. Tuy bão có sức phá huỷ lớn, nhưng trái ngược với nó, mắt bão là một vùng có thời tiết đa phần là bình yên, điều này làm cho mắt bão là nơi có gió không lớn, trời quang mây tạnh. Bao quanh mắt bão là những xoáy thuận nhiệt đới hay còn gọi là bão, tại đây những xoáy thuận chuyển động với tốc độ cao, bao bọc mắt bão và không cho không khí lọt vào.

    Mắt bão thường có bán kính từ 15 – 35 km (10 – 20 dặm) tuỳ theo độ lớn của bão. Các cơn bão phát triển nhanh chóng tạo thành những mắt bão siêu nhỏ (mắt bão lỗ kim) hay những cơn bão có mắt bị mây che đi mất, thì cần phải có những phương thức như quan sát bằng thuyền hoặc máy bay săn bão dưới sự đánh giá vận tốc gió sụt giảm ở đâu để chỉ ra mắt bão nằm ở đâu. Từ đó giảm thiểu những khó khăn khi các nhà khí tượng phán đoán thời tiết.

Mắt bão

    Nguyên nhân hình thành bão

    Nguyên nhân chủ quan từ con người

    Bên cạnh những nguyên nhân khách quan từ các thành tố tự nhiên thì không thể không kể đến một số nguyên nhân chủ quan từ con người. Hiện tượng biến đổi khí hậu là một phần nguyên nhân gây ra tình trạng bão ngày một nhiều. Do lượng khí CO2 từ khí thải nhà kính và khí CH4 từ các hoạt động công nghiệp. Điều đó, khiến cho bầu khí quyển trở nên nóng hơn và tăng mức độ hấp thụ nhiệt, thúc đẩy quá trình bay hơi diễn ra nhanh hơn, làm tăng độ ẩm của bầu khí quyển, tạo nên sức mạnh lớn cho những cơn bão khắc nghiệt hơn và sức tàn cũng phá nặng nề không kém.

   Nguyên nhân khách quan từ tự nhiên

   Một số nguyên nhân chủ yếu có thể kể đến các thành tố như: ánh sáng mặt trời, biển và sự hình thành của hơi nước.

    Nguyên nhân chủ yếu hình thành bão được phân tích là khi ánh sáng mặt trời chiếu xuống biển làm cho nước bay hơi. Tạo ra một luồng khí ẩm phía trên mặt biển, khi gặp điều kiện thuận lợi ở nơi có áp suất thấp, nước biển sẽ bay hơi nhiều hơn, với vị trí cao hơn để tạo thành cột khí ẩm.

   Và khi lên cao, cột khí ẩm này sẽ trở nên lạnh hơn. Khi đã đạt đến thời điểm nhất định nó sẽ ngưng tụ thành nước và bị không khí xung quanh làm nóng. Có một tỷ lệ thuận giữa 3 yếu tố là không khí, hơi nước và khí ẩm. Khi hút lại với nhau tạo nên tác động lực quán tính với hoàn lưu quay.

    Trả lời cho câu hỏi nguyên nhân hình thành bão như thế nào? Điều đó còn phụ thuộc vào tốc độ xoáy phải lớn hơn 17m/s. Tiếp đó không khí bay lên và định hình trên tầng cao, từ đó hình thành nên những vùng áp cao trên đám mây và đẩy không khí thành mắt bão.

    Tác hại và hậu quả của bão là gì?

    Nhắc tới bão là nhắc tới những kí ức đau buồn mà chúng ta phải gánh chịu, những hậu quả đáng tiếc do bão đã gây ra cho chúng ta là cực kì lớn. Mưa lớn, ngập lụt, gió thổi mạnh, sấm chớp, lốc xoáy làm hư hỏng nhà cửa, thiệt hại cơ sở vật chất, mùa màng và ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng của con người. […]

(Theo báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, https://dangcongsan.vn/, thứ Sáu, 21/04/2023)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Thông tin chính mà tác giả muốn chuyển tải qua văn bản này là gì?

Câu 2. Theo tác giả, sự khác nhau của bão và mắt bão là gì?

Câu 3. 

a. Xác định thành phần biệt lập trong câu: Các cơn bão phát triển nhanh chóng tạo thành những mắt bão siêu nhỏ (mắt bão lỗ kim) hay những cơn bão có mắt bị mây che đi mất, thì cần phải có những phương thức như quan sát bằng thuyền hoặc máy bay săn bão dưới sự đánh giá vận tốc gió sụt giảm ở đâu để chỉ ra mắt bão nằm ở đâu.

b. Xét theo mục đích nói, “Nhắc tới bão là nhắc tới những kí ức đau buồn mà chúng ta phải gánh chịu, những hậu quả đáng tiếc do bão đã gây ra cho chúng ta là cực kì lớn.” thuộc kiểu câu nào?

Câu 4. Trong phần Nguyên nhân hình thành bão, tác giả đã triển khai thông tin bằng cách nào? Nhận xét về hiệu quả của cách trình bày thông tin đó.

Câu 5. Trình bày tác dụng của phương tiện phi ngôn ngữ trong văn bản trên.

Câu 6. Theo tác giả những hậu quả đáng tiếc do bão đã gây ra cho chúng ta là cực kì lớn. Với góc nhìn của một người trẻ, theo em, chúng ta cần làm gì để hạn chế những ảnh hưởng nghiêm trọng của hiện tượng tự nhiên tàn khốc này? Viết một đoạn văn khoảng 5 – 7 câu trả lời cho câu hỏi trên.

0
18 tháng 3

1. Giới thiệu tác phẩm

Chiếc lá cuối cùng là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của O. Henry, được sáng tác vào đầu thế kỷ XX. Truyện mang đậm giá trị nhân văn, ca ngợi tình người và sức mạnh của niềm tin, đồng thời thể hiện phong cách nghệ thuật đặc trưng của tác giả với những tình huống bất ngờ, cảm động.

2. Tóm tắt truyện

Câu chuyện diễn ra tại một khu phố nghèo ở New York, nơi có hai nữ họa sĩ trẻ là JohnsySue sống cùng nhau. Mùa đông đến, Johnsy mắc bệnh viêm phổi nặng và mất dần hy vọng sống. Cô tin rằng khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống, cô cũng sẽ lìa đời.

Người họa sĩ già Behrman, hàng xóm của họ, đã lặng lẽ vẽ một chiếc lá thường xuân trên tường trong đêm mưa gió để giữ vững niềm tin cho Johnsy. Nhờ chiếc lá kiên cường không rơi, Johnsy lấy lại ý chí sống và hồi phục. Nhưng bi kịch xảy ra: Behrman lại qua đời vì viêm phổi sau khi vẽ chiếc lá trong mưa rét.

3. Phân tích nội dung

a) Chủ đề và giá trị nhân văn
  • Tình người cao đẹp: Truyện thể hiện tình yêu thương và sự hy sinh cao cả giữa những con người nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Behrman sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu một cô gái trẻ.
  • Niềm tin và nghị lực sống: Johnsy gần như từ bỏ sự sống, nhưng chỉ một "chiếc lá" nhỏ bé cũng có thể vực dậy tinh thần cô. Điều đó cho thấy sức mạnh của ý chí và hy vọng.
  • Nghệ thuật và sự bất tử: Behrman luôn mơ ước vẽ một kiệt tác. Cuối cùng, "chiếc lá cuối cùng" chính là kiệt tác của ông – một tác phẩm không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn cứu rỗi một con người.
b) Hình tượng nhân vật

Johnsy: Một cô gái trẻ, giàu đam mê nhưng yếu đuối trước bệnh tật. Sự thay đổi của Johnsy từ chỗ tuyệt vọng đến hồi sinh thể hiện ý nghĩa của niềm tin vào cuộc sống.

Sue: Một người bạn tận tụy, luôn chăm sóc Johnsy và tìm mọi cách để động viên cô. Sue là hiện thân của tình bạn chân thành.

Behrman: Một họa sĩ già, nghèo khó nhưng có một trái tim vĩ đại. Ông sống lặng lẽ, hy sinh vì người khác mà không màng danh lợi. Behrman tượng trưng cho lòng nhân ái và sự hy sinh vô điều kiện.

4. Nghệ thuật đặc sắc

  • Tình huống truyện bất ngờ: Chiếc lá cuối cùng tưởng như là thật nhưng hóa ra lại là một tác phẩm hội họa. Điều này tạo nên sự xúc động mạnh mẽ.
  • Lối kể chuyện giản dị nhưng sâu sắc: O. Henry sử dụng giọng kể tự nhiên, gần gũi nhưng đầy tính triết lý.
  • Hình ảnh biểu tượng: "Chiếc lá cuối cùng" không chỉ là một vật thể mà còn tượng trưng cho niềm tin, hy vọng và tình yêu thương trong cuộc sống.

5. Bài học rút ra

  • Niềm tin có thể thay đổi số phận: Dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, con người vẫn có thể tìm thấy hy vọng nếu không từ bỏ.
  • Lòng tốt và sự hy sinh luôn tồn tại: Cuộc sống có thể khắc nghiệt, nhưng vẫn có những con người như Behrman, sẵn sàng hy sinh vì người khác.
  • Giá trị của nghệ thuật: Nghệ thuật không chỉ để thưởng thức mà còn có thể mang lại sự sống và thay đổi con người.

6. Kết luận

Chiếc lá cuối cùng là một truyện ngắn cảm động, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. Với nghệ thuật kể chuyện tinh tế và tình huống bất ngờ, O. Henry đã để lại một tác phẩm bất hủ về tình yêu thương và niềm tin vào cuộc sống.

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Bát phở” của tác giả Phong Điệp. BÁT PHỞ      (Lược trích một phần: Nhân vật “tôi” đi ăn phở tại một quán phở khá ngon, có tiếng ở Hà Nội. Tôi tình cờ được chứng kiến câu chuyện của hai người cha đang đưa hai cậu con trai từ quê lên Hà Nội thi đại học....
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích chủ đề và những nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Bát phở” của tác giả Phong Điệp.

BÁT PHỞ

     (Lược trích một phần: Nhân vật “tôi” đi ăn phở tại một quán phở khá ngon, có tiếng ở Hà Nội. Tôi tình cờ được chứng kiến câu chuyện của hai người cha đang đưa hai cậu con trai từ quê lên Hà Nội thi đại học. Hai người cha sau khi đã trao đổi với nhau mất vài phút, họ cùng bước vào quán phở chỗ tôi đang ngồi.)

     Cả bốn người họ nhìn sang tôi, nhìn sang những bàn khác, rồi tần ngần nhìn tới nhìn lui cái biển ghi trên cửa quán.

     – Phở bò nhé? Tái hay chín?

     – Thêm cả quả trứng cho chắc bụng nhé?

     Hai cậu con nhè nhẹ gật đầu:

     – Vâng, gì cũng được.

     – Thế thì cho hai phở bò chín. Hai trứng.

     Thằng nhỏ chạy bàn vo cái khăn trong tay, tần ngần nhìn bốn người, ý chừng như muốn hỏi: “Sao bốn người mà chỉ có hai bát?”. Nó chạy ra chỗ ông chủ quán, chỏng lỏn: “Hai bò!”.

     Trong tích tắc, hai bát phở sóng sánh được bê ra, đặt trịnh trọng trên bàn.

     – Chúng mày ăn đi. – Một trong hai người cha lên tiếng.

     Đoạn hai ông kéo xích cái ghế ra ngoài một chút, thì thầm nói chuyện với nhau. Đại loại ba cái chuyện mùa màng, bò đẻ, vải thiều sụt giá,... Rồi tới nữa là chuyện phòng trọ trên này sao đắt chi mà đắt. Sáng mốt ngủ dậy, mình phải trả phòng luôn, không là họ tính thêm một ngày nữa. Mình đợi chúng nó ngoài phòng thi, thi xong thì ra bến xe về luôn. Cần thì mua mấy tấm bánh mì, lên xe ăn tạm. Về đến quê rồi, chúng nó thích ăn gì, tha hồ ăn. Chứ trên này, chậc...chậc...

     Cuộc sống nơi đây hẳn là khác rất xa với nơi họ vẫn sống hàng ngày, nơi mà họ đang thon thót về đợt vải năm nay, con bò sắp đẻ lại lăn đùng ra ốm. Họ chỉ vừa lên đây vài ba bữa mà đã thấy lâu quá trời quá đất. Bộ quần áo chỉn chu nhất trong tủ quần áo của hai ông bố nông dân ấy, đều đã mang cả ra đây để mặc rồi. Những bộ quần áo không còn rõ màu sắc ban đầu của vải nữa. Nhưng dưới quê, chỉ có lễ trọng họ mới mặc mà thôi.

     Trong khi ấy, hai cậu con vẫn cặm cụi ngồi với bát phở của mình. Chúng không nói gì. Không cả dám khen một câu đại loại: "Phở ở đây ngon quá!", “Hàng phở này ngon thật!”. Tôi vốn rành ăn phở, những quán thế này không thật nhiều. Nhưng vì sao chúng không hồ hởi mà thổi ra một câu như thế?

     Và tôi, không kìm nén được mình, cứ hướng sang phía bốn con người ấy. Bốn con người ngồi lặng một góc giữa cái quán ồn ã. Người cha sẽ đợi những đứa con của mình ăn đến tận thìa nước cuối cùng, rồi lẳng lặng moi cái ví bằng vải bông chần màu lam, cất trong ngực áo ra. Ông sẽ phải đếm một lúc cho những tờ hai nghìn, năm nghìn, mười nghìn để sao cho đủ ba mươi nghìn đồng, trả cho hai bát phở...

     Hai cậu con trai lặng lẽ bên những người cha. Chúng nhìn những đồng tiền đi ra khỏi ví của cha. Trên gương mặt chúng hiển hiện rõ ràng nỗi âu lo, mỏi mệt. Những kì thi, những nẻo đường ngổn ngang phía trước... Hôm nay, chúng nợ cha ba mươi nghìn đồng. Cuộc đời này, chúng nợ những người cha hơn thế nhiều...

(Theo Phong Điệp, Văn học và Tuổi trẻ, số tháng 5 (430 – 431) năm 2019, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 61 – 63)

* Chú thích: Nhà văn Phong Điệp tên thật là Phạm Thị Phong Điệp, sinh năm 1976 tại Nam Định. Truyện của Phong Điệp thường ít cảm xúc lai láng nghệ sĩ, mà tràn trề những câu văn miêu tả của người quan sát khách quan, nhẹ nhõm, dửng dưng nhưng lôi cuốn người đọc đến tận câu kết cuối cùng.

2
18 tháng 3

Truyện ngắn “Bát phở” của Phong Điệp là một tác phẩm giàu tính nhân văn và phản ánh sâu sắc tình yêu thương, sự hy sinh của những người cha dành cho con cái. Qua đó, tác phẩm không chỉ thể hiện chân thực bức tranh cuộc sống mà còn mang đến nhiều suy ngẫm về tình cảm gia đình và giá trị của sự hy sinh.


**Chủ đề chính của truyện** xoay quanh tình cảm gia đình, cụ thể là tình phụ tử. Trong khung cảnh đời thường tại một quán phở ở Hà Nội, câu chuyện khắc họa hình ảnh hai người cha từ quê lên thành phố cùng con trai dự thi đại học. Họ là những người nông dân giản dị, mộc mạc, đang đối mặt với gánh nặng cơm áo gạo tiền. Sự hy sinh của họ được thể hiện qua những hành động nhỏ như nhường con ăn phở trong khi bản thân chỉ ngồi một góc trò chuyện về cuộc sống khó khăn. Truyện ngắn nhấn mạnh rằng tình yêu thương và sự hy sinh của cha mẹ dành cho con cái là vô bờ bến, thầm lặng nhưng vô cùng sâu sắc.


**Nét đặc sắc nghệ thuật** của truyện được thể hiện qua nhiều yếu tố:


1. **Cách kể chuyện gần gũi, chân thực:** Tác giả chọn ngôi kể thứ nhất, từ góc nhìn của nhân vật “tôi”, để tái hiện một cách chân thực khung cảnh đời thường. Lời kể nhẹ nhàng, quan sát khách quan nhưng lại tạo nên sự lôi cuốn bởi sự tinh tế trong từng chi tiết miêu tả.


2. **Hình ảnh đời thường mang ý nghĩa sâu sắc:** Câu chuyện xoay quanh bát phở – một món ăn bình dị, quen thuộc với mọi người Việt Nam. Tuy nhiên, bát phở ở đây trở thành biểu tượng của sự hy sinh, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái. Chi tiết hai người cha chỉ gọi hai bát phở cho con, trong khi họ ngồi bên và không ăn, đã tạo nên sự xúc động mạnh mẽ, khắc họa rõ nét tình yêu thầm lặng của những người làm cha.


3. **Miêu tả tâm lý tinh tế:** Tâm lý của nhân vật được tái hiện qua từng cử chỉ, ánh mắt và lời nói. Hai người cha lo lắng về tiền bạc, tính toán từng đồng để đủ chi phí cho chuyến đi. Trong khi đó, hai cậu con trai tuy im lặng nhưng dường như cảm nhận được nỗi vất vả của cha mình, khiến câu chuyện thêm phần cảm động.


4. **Ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc:** Phong Điệp sử dụng ngôn từ dung dị, gần gũi, nhưng lại có khả năng chạm đến trái tim người đọc. Chính sự đơn giản đó đã làm nổi bật lên chiều sâu của câu chuyện và giá trị nhân văn.


Tóm lại, “Bát phở” là một tác phẩm ngắn gọn nhưng đầy sức mạnh, phản ánh tình cảm gia đình trong cuộc sống hiện đại. Qua những chi tiết đời thường và cách miêu tả tinh tế, Phong Điệp đã làm nổi bật lên tình cha con sâu sắc, từ đó gợi lên trong lòng độc giả sự trân trọng và yêu quý hơn những giá trị giản dị của cuộc sống. Truyện không chỉ là một lát cắt nhỏ trong đời sống, mà còn là tấm gương soi chiếu về tình yêu thương và trách nhiệm gia đình.

18 tháng 3

Cô tick cho em nhé

Đọc văn bản sau:                   Lúa chín       Đồng chiêm phả nắng lên không Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng       Gió nâng tiếng hát chói chang  Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.                   Gặt lúa       Tay nhè nhẹ chút người ơi Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng       Dễ rơi là hạt đầu bông Công một nén, của một đồng là đây.      ...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

                  Lúa chín

      Đồng chiêm phả nắng lên không

Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng

      Gió nâng tiếng hát chói chang

 Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.

                  Gặt lúa

      Tay nhè nhẹ chút người ơi

Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng

      Dễ rơi là hạt đầu bông

Công một nén, của một đồng là đây.

                  Tuốt lúa

      Mảnh sân trăng lúa chất đầy

Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình

      Rơm vò từng búi rối tinh

Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi.

                  Phơi khô

      Nắng non mầm mục mất thôi

Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn

       Nắng già hạt gạo thêm ngon

Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.

                  Quạt sạch

      Cám ơn cơn gió vô tư

Quạt đi vù vù rác rưởi vương rơi

      Hạt nào lép cứ bay thôi

Gió lên cho lúa sáng ngời mặt gương!

(1)    Một bức tranh về mùa gặt ở nông thôn miền Bắc những năm hợp tác hóa nông nghiệp đã được nhà thơ Nguyễn Duy miêu tả bằng những nét không thể lẫn. Một mùa vàng bát ngát với những cánh đồng lúa chín, với cái nắng tháng năm chói chang, với liềm hái và những cánh cò, với tiếng máy tuốt lúa rộn rã đêm trăng,.... Tất cả tạo nên một không khí đầm ấm, thanh bình mà ta đã từng gặp những nơi thôn quê khi mùa gặt đến.

(2)    […] Đây là không gian mùa gặt. Cái nắng gắt gao hình như không phải từ trên trời xuống, mà như ngược lại được "phả" từ cánh đồng lên: đồng lúa rộng quá, màu vàng của lúa chín còn sáng ngợp hơn cả nắng trời, đến nỗi nó làm đảo lộn cả tương quan của tự nhiên trong cảm nhận của con người. Chỉ nội một chữ “phả” đã gợi được không gian và cái nóng hầm hập của thời tiết. Người ta vẫn nói “cánh cò chở nắng”, còn ở đây nhà thơ thấy cánh cò dẫn gió. Hình ảnh có sự khác nhau, nhưng ấn tượng mà nó đem đến chỉ là một: thiên nhiên chợt có hồn trong một cánh cò mải miết bay ngang. Gió đã có hồn, nó nâng tiếng hát hay chính nó là tiếng hát ấy trên vòm cao chói chang? Đến những lưỡi hái cũng sáng lên như những tia chớp nhỏ, cần mẫn “liếm ngang chân trời”. Bốn dòng thơ trong khổ đầu, cứ một dòng gợi ý niệm cao, lại một dòng gợi ý niệm rộng. Sự kết hợp giữa chúng mở ra một không gian rộng lớn và sống động của những ngày mùa gặt hái nơi đồng quê.

(3)    Chưa hết, không gian mùa gặt không chỉ được mở ra trên những cánh đồng ban ngày, nó còn hiện lên ở trong thôn xóm buổi đêm: “Mảnh sân trăng lúa chất đầy/ Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình”. Cái sân nông thôn ngày thường rộng thế, nói “sân trăng” thì còn rộng hơn nữa. Cái rộng rãi, đẹp của ánh trăng ngàn đời nơi thôn dã đã gặp gỡ vẻ đẹp của sự no ấm nơi đây, nhường chỗ cho những đồng lúa chất cao ngồn ngộn một vẻ rất đời thường. Hơn thế nữa, những náo nức của mùa gặt đã đánh thức cả ánh trăng vốn tĩnh lặng; dưới ánh trăng, trong nhịp máy quay rộn ràng, những hạt lúa chín mẩy chảy tràn trông như thể “vàng tuôn”. Câu thơ có vẻ sáo, nhưng bù lại, nó đã thể hiện rất hồn nhiên cái tình cảm của một anh nhà nghèo, xoa tay sung sướng trước những thành quả do mình làm ra.

(4)    Ấy vậy nhưng người nông dân ở nhà thơ Nguyễn Duy lại rất hay “cả nghĩ”. Luôn có hai thái cực song hành trong tình cảm của người ấy. Xôn xao náo nức là thế khi mùa gặt đến, nhưng tự đáy lòng mình, người ấy vẫn đắm xuống trong một tình cảm lo xa. Thành quả ấy, “của một đồng, công một nén là đây”, cho nên mới phải thốt lên: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi/ Trông đôi hạt rụng, hạt rơi xót lòng”. Chuyện đời lúa, đời người cứ lẫn vào nhau, đến nỗi nhìn những bó rơm bị vò nát mà cũng thấy “Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi!”. Lại cả những lo xa đã có từ ngàn đời nảy sinh trên luống cày, vẫn cứ còn nung nấu: “Nắng non mầm mục mất thôi/ Vì đời lúa đó mà phơi cho giòn”.

    […]

(Trần Hòa Bình, Tiếng hát mùa gặt của Nguyễn Duy, Thơ với lời bình, Nhiều tác giả, tập 2, NXB Giáo dục, 1996)

* Trần Hoà Bình (1956 – 2008) sinh ra tại Hà Tây, là nhà báo, nhà thơ. Ông còn là chuyên gia tâm lý sâu sắc và hóm hỉnh với những lời gỡ rối tâm tình giúp độc giả với bút danh Tầm Thư. Trần Hoà Bình là người đàn ông đa tài. Ông viết báo, làm thơ, vẽ, giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm 2, Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Và chỉ với bài thơ Thêm một, Trần Hòa Bình ghi tên mình như một thi sĩ tài hoa trên thi đàn Việt Nam đương đại.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên bàn về vấn đề gì?

Câu 2. Xác định câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3).

Câu 3. Xác định thành phần biệt lập trong những câu sau:

a. Cái nắng gắt gao hình như không phải từ trên trời xuống, mà như ngược lại được "phả" từ cánh đồng lên: đồng lúa rộng quá, màu vàng của lúa chín còn sáng ngợp hơn cả nắng trời, đến nỗi nó làm đảo lộn cả tương quan của tự nhiên trong cảm nhận của con người.

b. Thành quả ấy, “của một đồng, công một nén là đây”, cho nên mới phải thốt lên: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi/ Trông đôi hạt rụng, hạt rơi xót lòng”.

Câu 4. Đoạn (2) sử dụng những cách trích dẫn bằng chứng nào? Tác dụng của việc dùng cách trích dẫn ấy là gì?

Câu 5. Các lí lẽ và bằng chứng được dùng trong đoạn (4) có vai trò như thế nào trong việc thể hiện luận điểm của đoạn văn này?

Câu 6. Em thích nhất điều gì trong nghệ thuật nghị luận của tác giả? Vì sao?

2
18 tháng 3

Câu 1: Văn bản trên bàn về vấn đề gì? Văn bản bàn về vẻ đẹp của mùa gặt ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, đồng thời khắc họa cảm xúc và tâm tư của người nông dân qua các giai đoạn của mùa gặt như gặt lúa, tuốt lúa, phơi khô, và quạt sạch.

Câu 2: Xác định câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3). Câu văn nêu luận điểm trong đoạn (3) là: “Không gian mùa gặt không chỉ được mở ra trên những cánh đồng ban ngày, nó còn hiện lên ở trong thôn xóm buổi đêm.”

Câu 3: Xác định thành phần biệt lập trong các câu sau: a. Thành phần biệt lập: “hình như” (thành phần tình thái). b. Thành phần biệt lập: “ấy”, “của một đồng, công một nén là đây” (thành phần tình thái và thành phần giải thích).

Câu 4: Đoạn (2) sử dụng những cách trích dẫn bằng chứng nào? Tác dụng của việc dùng cách trích dẫn ấy là gì?

  • Cách trích dẫn: Đoạn (2) trích dẫn trực tiếp các hình ảnh và từ ngữ tiêu biểu từ bài thơ như “phả từ cánh đồng lên”, “cánh cò dẫn gió”, và “liếm ngang chân trời”.
  • Tác dụng: Việc trích dẫn này làm nổi bật sự sinh động của không gian mùa gặt, đồng thời tăng tính thuyết phục cho luận điểm khi kết hợp phân tích ngôn ngữ giàu hình ảnh của bài thơ.

Câu 5: Các lí lẽ và bằng chứng được dùng trong đoạn (4) có vai trò như thế nào trong việc thể hiện luận điểm của đoạn văn này?

  • Vai trò: Các lí lẽ và bằng chứng trong đoạn (4) làm rõ tính cách “cả nghĩ” của người nông dân. Tâm lý xót xa, lo toan được nhấn mạnh qua các câu thơ trích dẫn như: “Tay nhè nhẹ chút, người ơi” và “Thân rơm rách để hạt lành lúa ơi!”. Những lí lẽ này không chỉ thể hiện chiều sâu trong cảm xúc của người nông dân mà còn làm nổi bật sự gắn bó giữa đời người và đời lúa, qua đó khẳng định sự cần mẫn và ân cần trong lao động.

Câu 6: Em thích nhất điều gì trong nghệ thuật nghị luận của tác giả? Vì sao?

  • Điều yêu thích: Em thích nhất cách tác giả phân tích và bình luận dựa trên các hình ảnh và ngôn từ giàu cảm xúc của bài thơ.
  • Lý do: Cách phân tích vừa gần gũi, vừa sâu sắc, giúp người đọc hình dung rõ ràng không gian mùa gặt và cảm nhận được cái hồn của bài thơ cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Tác giả còn kết hợp được cả tình cảm chân thành, tạo nên sự lôi cuốn đặc biệt.
18 tháng 3

Cô tick cho em nhé


(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích những đặc sắc nghệ thuật và chủ đề của bài thơ “Sông núi nước Nam”.           Sông núi nước Nam           (Nam quốc sơn hà)     Phiên âm     Nam quốc sơn hà Nam đế cư     Tiệt nhiên định phận tại thiên thư     Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm     Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.         Dịch thơ     Sông núi...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Viết một bài văn (khoảng 600 chữ) phân tích những đặc sắc nghệ thuật và chủ đề của bài thơ “Sông núi nước Nam”.

          Sông núi nước Nam

          (Nam quốc sơn hà)

    Phiên âm

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư

    Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

   

    Dịch thơ

    Sông núi nước Nam vua Nam ở

    Vằng vặc sách trời chia xứ sở

    Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

    Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước – Nam Trân dịch, trong Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)

* Chú thích:

– Chưa rõ tác giả của bài thơ là ai. Sau này có nhiều sách (kể cả bức sơn mài ở Viện Bảo tàng Lịch sử) ghi là Lý Thường Kiệt.

Tiệt nhiên: rõ ràng như thế, không thể khác.

Phận: rút gọn của từ “giới phận”, “địa phận” là phần đất đã được giới hạn (có bản chép: phận định).

Như hà: cớ sao.

Lỗ: mọi rợ, quân địch, thường được dùng với thái độ khinh miệt.

Lai: đến.

Nhữ đẳng: bọn chúng mày.

Khan: xem.

Thủ: nhận lấy.

7
18 tháng 3

mandka


18 tháng 3

fhfg

Đọc văn bản sau:        Khoe lười Anh em chớ bảo ta lười, Làm việc cho hay phải thức thời. Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí, Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi. Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh, Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi. Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu, Anh em chớ bảo ta lười.                                (Tú Mỡ) Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau:

       Khoe lười

Anh em chớ bảo ta lười,

Làm việc cho hay phải thức thời.

Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,

Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.

Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,

Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.

Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,

Anh em chớ bảo ta lười.

                               (Tú Mỡ)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 6 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ nào?

Câu 2. Đối tượng trào phúng trong bài thơ là ai?

Câu 3. Nhận xét về sắc thái nghĩa của từ “khoe” trong nhan đề “Khoe lười” của bài thơ.

Câu 4. Chủ đề của bài thơ là gì? Nêu một số căn cứ để giúp em xác định chủ đề đó.

Câu 5. Phân tích tác dụng của việc kết hợp từ ngữ chỉ thời gian và từ ngữ miêu tả công việc nên làm trong đoạn thơ sau.

     Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,

     Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.

     Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,

     Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.

Câu 6. Một trong những thông điệp mà bài thơ muốn nhắn nhủ đến bạn đọc đó là không nên có thói xấu trì hoãn công việc trong cuộc sống. Với góc nhìn của một người trẻ, hãy viết đoạn văn khoảng 5 – 7 câu đưa ra giải pháp để loại bỏ thói quen trì hoãn.

0
18 tháng 3

Bài văn cảm nghĩ về đoạn trích:


Đoạn trích trên là một đoạn văn cảm động và sâu sắc, nói về tình mẫu tử và sự nhớ nhung, xót thương của người con đối với người mẹ đã qua đời.


Đoạn trích bắt đầu bằng hình ảnh hoa sen, một biểu tượng của vẻ đẹp, sự tinh khiết và thanh cao. Mẹ đã hát về hoa sen, về vẻ đẹp của nó, về sự lặng lẽ và dịu dàng của nó. Hình ảnh này đã gợi lên trong tôi cảm giác về sự ấm áp và yêu thương của người mẹ.


Tuy nhiên, đoạn trích cũng nói về sự mất mát và chia ly. Sen đã tàn, mùa hạ đã qua, và người mẹ đã lìa xa cõi đời. Đây là một sự thật đau đớn và không thể tránh khỏi. Nhưng đoạn trích cũng cho chúng ta thấy rằng, mặc dù người mẹ đã qua đời, nhưng tình yêu và nhớ nhung của người con vẫn còn đó, vẫn sống mãi.


Cuối cùng, đoạn trích nói về sự chuyển hóa và sự sống mãi của người mẹ. Sen tàn rồi sen lại nở, người mẹ thành ngôi sao lên trời. Đây là một hình ảnh đẹp và sâu sắc, nói về sự sống mãi và sự chuyển hóa của con người.


Tổng thể, đoạn trích trên là một đoạn văn cảm động và sâu sắc, nói về tình mẫu tử, sự nhớ nhung và xót thương, và sự sống mãi của con người. Nó đã gợi lên trong tôi cảm giác về sự ấm áp và yêu thương của người mẹ, và sự chuyển hóa và sự sống mãi của con người.

ĐỀ 1:I. PHẦN ĐỌC – HIỂU (4.0 điểm)Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu dưới đây:“Quê hương là vòng tay ấmCon nằm ngủ giữa mưa đêmQuê hương là đêm trăng tỏHoa cau rụng trắng ngoài thềmQuê hương là vàng hoa bíLà hồng tím giậu mồng tơiLà đỏ đôi bờ giâm bụtMàu hoa sen trắng tinh khôiQuê hương mỗi người chỉ mộtNhư là chỉ một mẹ thôiQuê hương có au không...
Đọc tiếp

ĐỀ 1:

I. PHẦN ĐỌC – HIỂU (4.0 điểm)

Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu dưới đây:

“Quê hương là vòng tay ấm

Con nằm ngủ giữa mưa đêm

Quê hương là đêm trăng tỏ

Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương là vàng hoa bí

Là hồng tím giậu mồng tơi

Là đỏ đôi bờ giâm bụt

Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương có au không nhớ…”

(Trích Bài học đầu cho con, Đỗ Trung Quân, Có hoa cận gốc, NXB Thuận Hóa - Huế, 1991)

 

Câu 1 (0,5 điểm): Xác định thể thơ của đoạn thơ trên.

Câu 2 (0,5 điểm): Xác định nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên.

Câu 3 (1,0 điểm): Cho biết ý nghĩa của phép lập từ trong hai câu sau:
"Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi"

Câu 4 (1,0 điểm): Cho biết cảm xúc chủ đạo (xuyên suốt) của bài thơ.

Câu 5 (1,0 điểm): Cho biết thông điệp được gửi gắm từ đoạn thơ trên.

1
18 tháng 3

Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (0,5 điểm):

  • Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ tự do.

Câu 2 (0,5 điểm):

  • Nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là người con đang bày tỏ tình cảm về quê hương.

Câu 3 (1,0 điểm):

  • Phép lặp từ "chỉ một" trong hai câu thơ:
    "Quê hương mỗi người chỉ một
    Như là chỉ một mẹ thôi"
    → Nhấn mạnh sự độc nhất, thiêng liêng của quê hương, giống như tình mẫu tử. Quê hương không thể thay thế, mỗi người chỉ có một quê hương duy nhất để yêu thương và gắn bó.

Câu 4 (1,0 điểm):

  • Cảm xúc chủ đạo của bài thơ là tình yêu quê hương sâu nặng, tha thiết.

Câu 5 (1,0 điểm):

  • Thông điệp được gửi gắm: Quê hương là nơi gắn bó thiêng liêng, gần gũi và không thể thay thế trong trái tim mỗi người. Hãy yêu thương, trân trọng và giữ gìn quê hương như chính tình yêu đối với mẹ.