K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Câu 1. (2 điểm)      Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Dung trong đoạn trích sau:      (Lược một đoạn: Dung là con thứ bốn trong gia đình bị sa sút kinh tế. Nàng lớn lên trong sự hờ hững, lạnh nhạt của gia đình. Rồi bị mẹ già bán cho một nhà giàu để lấy mấy trăm đồng bạc.)      Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ,...
Đọc tiếp

Câu 1. (2 điểm)

     Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật Dung trong đoạn trích sau:

     (Lược một đoạn: Dung là con thứ bốn trong gia đình bị sa sút kinh tế. Nàng lớn lên trong sự hờ hững, lạnh nhạt của gia đình. Rồi bị mẹ già bán cho một nhà giàu để lấy mấy trăm đồng bạc.)

     Khốn nạn cho Dung từ bé đến nay không phải làm công việc gì nặng nhọc, bây giờ phải tát nước, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt ngày. Đã thế lại không có người an ủi. Chồng nàng thì cả ngày thả diều, chả biết cái gì mà cũng không dám cãi lại bà cụ. Còn hai em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị mắng thêm.

     Những lúc Dung cực nhọc quá, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay nghiến:

     - Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu.

     Rồi bà kể thêm:

     - Bây giờ là người nhà tao rồi thì phải làm. Mấy trăm bạc dẫn cưới, chứ tao có lấy không đâu.

     Dung chỉ khóc, không dám nói gì. Nàng đã viết ba bốn lá thư về kể nỗi khổ sở của nàng, nhưng không thấy cha mẹ ở nhà trả lời.

     (Lược một đoạn: Dung ăn trộm tiền của mẹ chồng để trốn về nhà nhưng bị mẹ đẻ đay nghiến. Sáng hôm sau, mẹ chồng xuống tìm nàng.)

     Bị khổ quá, nàng không khóc được nữa. Nàng không còn hi vọng gì ở nhà cha mẹ nữa. Nghĩ đến những lời đay nghiến, những nỗi hành hạ nàng phải sẽ chịu, Dung thấy lạnh người đi như bị sốt. Nàng hoa mắt lên, đầu óc rối bời, Dung ước ao cái chết như một sự thoát nợ.

     Nàng không nhớ rõ gì. Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong một giấc mơ, Dung lờ mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. [...] Nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối kéo đến che lấp cả.

     Bỗng nàng mơ màng nghe thấy tiếng nhiều người, tiếng gọi tên nàng, một làn nước nóng đi vào cổ. Dung ú ớ cựa mình muốn trả lời.

     […] Hai hôm sau, Dung mạnh khỏe hẳn. Bà mẹ chồng vẫn chờ nàng, hỏi có vẻ gay gắt thêm:

     - Cô định tự tử để gieo cái tiếng xấu cho tôi à? Nhưng đời nào, trời có mắt chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? Định ở hay định về?

     Dung buồn bã trả lời:

     -  Con xin về.

(Trích Hai lần chết, Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 2008)

Câu 2. (4 điểm)

     Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề bình đẳng giới hiện nay.

0
(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Nghĩ thêm về chi tiết cái bóng trong truyện Chuyện người con gái Nam Xương ThS. Đinh Văn Thiện          (1) Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” được Nguyễn Dữ viết lại với rất nhiều sáng tạo từ một cốt truyện dân gian. Truyện kể về một người chồng vì ghen tuông quá mức, dẫn tới những hành động mù quáng, làm tan nát cả một...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Nghĩ thêm về chi tiết cái bóng trong truyện Chuyện người con gái Nam Xương

ThS. Đinh Văn Thiện

         (1) Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” được Nguyễn Dữ viết lại với rất nhiều sáng tạo từ một cốt truyện dân gian. Truyện kể về một người chồng vì ghen tuông quá mức, dẫn tới những hành động mù quáng, làm tan nát cả một gia đình yên ấm, lẽ ra sẽ rất hạnh phúc. Hành động ghen tuông của người chồng đã đẩy người vợ đến chỗ uất ức quá phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn để chứng tỏ sự trong trắng thuỷ chung của mình. Từ góc độ đề tài, truyện không có gì mới mẻ. Tuy nhiên truyện vẫn rất hấp dẫn bởi đã xây dựng được một tình huống rất độc đáo. Đó là tình huống, sau bao nhiêu năm chinh chiến ngoài biên ải theo lệnh của triều đình, người chồng may mắn thoát chết trở về, những mong được ôm ấp đứa con của mình trong tình cha con đằm thắm, nào ngờ chính đứa con lại nói: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia, chỉ nín thin thít”. Đứa con còn kể tiếp: “Trước đây thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người vợ nói thế nào người chồng cũng không tin. Hàng xóm phân giải mọi điều về sự hiếu thảo, thuỷ chung của người vợ ở nhà, người chồng cũng chỉ cho là người vợ do khéo mồm khéo miệng mà được hàng xóm bao che. Tình huống ấy buộc người đọc phải theo dõi câu chuyện đến tận cùng xem kết cục là vì sao lại như vậy. Vì chuyện ghen tuông xưa nay vẫn có đến một ngàn lẻ một cách lí giải khác nhau, làm sao cắt nghĩa hết được! Người chồng chỉ sáng mắt ra khi chính đứa con chỉ vào cái bóng của anh ta nói: “Cha Đản đấy”.

        (2) Tuy nhiên, để tình huống ấy diễn ra một cách tự nhiên, hợp lí, người kể chuyện đã khéo léo cài đặt sẵn một chi tiết hết sức tự nhiên, một chi tiết lấy ra từ chính đời sống thường ngày. Đó là chi tiết lấy từ “trò chơi soi bóng trên tường”. Ngày xưa chưa có tivi, đến cả “rối hình" cũng không có, tối tối con cái thường quây quần quanh cha mẹ, ông bà, chơi trò soi bóng trên tường, nhờ ánh sáng ngọn đèn dầu, mỡ. Trò chơi này hết sức thú vị, vì từ hai bàn tay người chơi có thể tạo ra bao nhiêu hình thù vừa quen thuộc vừa kì lạ khác nhau, dựa vào tài khéo léo, óc tưởng tượng của cả người chơi và người xem. Trong trò chơi này ai cũng là người chơi, ai cũng là người xem nên có cái vui nhộn của không khí dân chủ và bình đẳng. Người vợ, vì chồng vắng nhà dằng dặc như thế, tối tối cũng chỉ còn biết chơi đùa với con bằng trò chơi ấy. Có lẽ vì muốn con luôn cảm thấy người cha vẫn có mặt ở nhà, và để tự an ủi mình, thấy mình với chồng vẫn luôn bên nhau như hình với bóng, nên người vợ đã chỉ vào cái bóng của mình mà nói với con rằng đó là cha của Đản - tên của đứa con. Gia đình, vì thế, lúc nào cũng cảm thấy sum vầy đông đủ, sự trống trải đã được khỏa lấp bằng hình ảnh của cái bóng êm đềm.

        (3) Từ một trò chơi dân dã, hết sức phổ biến, người kể chuyện đã đẩy lên thành một cái cớ để xây dựng thành một tình huống truyện độc đáo. Đó chính là sự tài hoa, sâu sắc của người kể chuyện. Cái bóng chỉ là cái cớ để xây dựng tình huống, là một chi tiết nghệ thuật, sao chúng ta lại gọi nó là “cái bóng oan khiên"? Đừng gán cho nó cái giá trị tư tưởng vốn không phải của nó mà quên mất cái đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của người xưa. Trò chơi ấy cũng còn cho thấy tấm lòng của người vợ nhớ chồng da diết nhường nào, thương con đến nhường nào. Người vợ làm sao có thể nghĩ tới việc sau này đứa con sẽ nói với người cha của nó những câu như ta đã thấy để tránh né câu chuyện vui đùa mà tình nghĩa và xúc động kia. Vì thế làm sao ta lại có thể phán xét rằng chính người vợ cũng có lỗi về cái chết của nàng một khi biết tính chồng hay đa nghi lại còn đùa với con như vậy. Lỗi và tội ở đây là cái sự ghen tuông đến mù quáng như một căn bệnh truyền đời của nhân loại.

        (4) Cũng chính vì mục đích sâu xa là lên án một cách gay gắt, quyết liệt thói ghen tuông (chứ không phải để lên án chiến tranh phong kiến loạn lạc, như một số nhận xét thường thấy) mà Nguyễn Dữ đã viết thêm đoạn kết (không có trong văn bản truyện cổ dân gian) có tính chất “thần kỳ”. Đoạn kết ấy không phải chỉ để câu chuyện thêm hấp dẫn! Đó là một kết thúc “mở” có ý nghĩa trả lại cho Vũ Nương sự trong sạch của một tấm lòng thuỷ chung, trong sáng, đồng thời thể hiện một thái độ bao dung đối với sai lầm của người chồng và của chính nàng mà thôi.

        (5) Truyện đã không để Vũ Nương về với chồng con. Điều đó buộc người đọc phải suy nghĩ sâu hơn về bài học mà truyện đặt ra. Người bị oan, cuộc đời có thể giải oan giúp họ. Còn hậu quả của những sai lầm do chính con người gây ra thì khôn lường và không phải bao giờ cũng khắc phục được. Đoạn kết của truyện đã xoáy vào lòng người đọc nỗi xót xa bởi cảnh đứa trẻ mất mẹ, suốt đời trong cảnh mồ côi, chỉ do thói ghen tuông của người cha...

(Văn học và Tuổi trẻ, số 7 (190), năm 2009)

Câu 1. Xác định luận đề của văn bản.

Câu 2. Theo người viết, truyện Chuyện người con gái Nam Xương hấp dẫn bởi tình huống truyện độc đáo nào?

Câu 3. Mục đích của việc người viết nhắc đến tình huống truyện ở phần mở đầu văn bản là gì?

Câu 4. Chỉ ra một chi tiết được trình bày khách quan và một chi tiết được trình bày chủ quan trong đoạn (2). Nhận xét về mối quan hệ giữa cách trình bày khách quan và cách trình bày chủ quan đó trong văn bản. 

Câu 5. Từ văn bản, cho biết vì sao người viết lại cho rằng chi tiết cái bóng là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc?

0
21 tháng 11
Câu 1: Phân tích nhân vật Lê Tương Dực

Trong đoạn trích, Lê Tương Dực hiện lên như một nhân vật có chiều sâu tâm lý và tinh thần kiên cường. Là một người con của đất nước, Dực thể hiện sự nhạy cảm trước nỗi đau của dân tộc và trách nhiệm của bản thân trong bối cảnh lịch sử đầy biến động. Từ những dòng suy nghĩ của mình, ta thấy rõ sự trăn trở, lo lắng về tương lai của đất nước. Lê Tương Dực không chỉ đơn thuần là một người lính, mà còn là một người nghệ sĩ với tâm hồn nhạy cảm, luôn khao khát hòa bình và công lý.

Dực có một lòng yêu nước mãnh liệt, thể hiện qua những hành động và quyết định của mình. Anh không ngại khó khăn, thử thách để bảo vệ quê hương, dù biết rằng cái giá phải trả có thể là tính mạng. Sự dũng cảm của Dực không chỉ nằm ở việc cầm súng chiến đấu, mà còn ở khả năng nhận thức sâu sắc về giá trị của cuộc sống và những gì mình đang bảo vệ.

Ngoài ra, Dực còn mang trong mình nỗi cô đơn, sự mất mát khi chứng kiến cái chết của đồng đội, điều này càng làm nổi bật tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng của anh. Từ đó, nhân vật Lê Tương Dực không chỉ là hình mẫu của một người lính, mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu nước, lòng nhân ái và khát vọng hòa bình trong bối cảnh lịch sử đầy gian nan.

Câu 2: Nghị luận về bệnh vô cảm của giới trẻ hiện nay

Trong xã hội hiện đại, bệnh vô cảm đang trở thành một vấn nạn đáng lo ngại, đặc biệt trong giới trẻ. Vô cảm không chỉ là sự thờ ơ trước những vấn đề xã hội, mà còn là sự thiếu kết nối và đồng cảm với những người xung quanh. Tình trạng này đang diễn ra ngày càng phổ biến và gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng.

Nguyên nhân dẫn đến bệnh vô cảm trong giới trẻ có thể bắt nguồn từ nhiều yếu tố. Đầu tiên, sự phát triển của công nghệ thông tin và mạng xã hội đã khiến cho các mối quan hệ trở nên xa cách hơn. Thay vì giao tiếp trực tiếp, nhiều bạn trẻ chọn cách tương tác qua màn hình, dẫn đến sự thiếu hụt cảm xúc và sự đồng cảm. Thứ hai, áp lực từ học tập, công việc và cuộc sống hàng ngày cũng khiến cho giới trẻ trở nên mệt mỏi, từ đó dẫn đến sự thờ ơ với những vấn đề xung quanh. Cuối cùng, một phần không nhỏ do giáo dục và môi trường sống không khuyến khích sự chia sẻ, đồng cảm và trách nhiệm xã hội.

Hậu quả của bệnh vô cảm là rất nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến các mối quan hệ cá nhân mà còn tác động đến cộng đồng. Khi mỗi người đều sống trong sự thờ ơ, xã hội sẽ trở nên lạnh lẽo, thiếu tình người. Những vấn đề như bạo lực học đường, xung đột xã hội hay thiên tai, dịch bệnh sẽ không nhận được sự quan tâm cần thiết, dẫn đến những hệ lụy khó lường.

Để khắc phục tình trạng này, cần có sự chung tay từ gia đình, nhà trường và xã hội. Giáo dục cần chú trọng đến việc phát triển kỹ năng sống, khuyến khích sự đồng cảm và tinh thần trách nhiệm. Các hoạt động tình nguyện, thiện nguyện cũng nên được khuyến khích để giúp giới trẻ hiểu rõ hơn về giá trị của việc chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.

Tóm lại, bệnh vô cảm trong giới trẻ là một vấn đề cần được giải quyết một cách nghiêm túc. Chỉ khi mỗi cá nhân nhận thức được giá trị của sự đồng cảm và kết nối, xã hội mới có thể trở nên tốt đẹp hơn.

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ câu 1 đến câu 5.  Lớp VIII Nội giám - Tâu Hoàng thượng, Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản xin vào bệ kiến. LÊ TƯƠNG DỰC (cau mặt) - Lão gàn quái! Có việc gì khẩn cấp? (nghĩ một lúc) Cho vào. (Nội giám ra.) TRỊNH DUY SẢN (quỳ xuống) - Vạn tuế. LÊ TƯƠNG DỰC - Cho bình thân. Ngươi tìm trẫm chắc vì có việc quân quốc. TRỊNH DUY SẢN - Tâu Hoàng thượng, quả có...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản và thực hiện yêu cầu từ câu 1 đến câu 5. 

Lớp VIII

Nội giám - Tâu Hoàng thượng, Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản xin vào bệ kiến.

LÊ TƯƠNG DỰC (cau mặt) - Lão gàn quái! Có việc gì khẩn cấp? (nghĩ một lúc) Cho vào.

(Nội giám ra.)

TRỊNH DUY SẢN (quỳ xuống) - Vạn tuế.

LÊ TƯƠNG DỰC - Cho bình thân. Ngươi tìm trẫm chắc vì có việc quân quốc.

TRỊNH DUY SẢN - Tâu Hoàng thượng, quả có thế.

LÊ TƯƠNG DỰC - Trẫm đã phó mặc việc nhớn việc nhỏ cho triều đình, ngươi chắc cũng đã biết. Trẫm còn bận việc Cửu Trùng Đài...

TRỊNH DUY SẢN - Hoàng thượng làm vua một nước, phải để ý đến mọi việc, phó thác làm sao cho triều đình được. Hoàng thượng không nên quá tin ở các quan. Họ nói rằng thiên hạ thái bình, thực ra phải nói: thiên hạ sắp loạn.

LÊ TƯƠNG DỰC - Vì cớ sao?

TRỊNH DUY SẢN - Hoàng thượng nên bãi ngay việc xây Cửu Trùng Đài.

KIM PHƯỢNG - Bãi Cửu Trùng Đài!

TRỊNH DUY SẢN - Dâm dật là mầm bại vong, xa xỉ là nguồn loạn lạc. Hoàng thượng là bậc thanh minh, xin nghĩ lại.

LÊ TƯƠNG DỰC - Ngươi hãy lui ra, trẫm không muốn nghe chuyện chướng tai nữa, lui ra.

TRỊNH DUY SẢN (nói to) - Hạ thần chỉ lo cho cơ nghiệp nhà Lê, cho Hoàng thượng, nên mới nói thật. Loạn đến nơi rồi!

LÊ TƯƠNG DỰC - Lại mấy đám giặc cỏ chứ gì?

TRỊNH DUY SẢN - Hoàng thượng không biết rõ. Giặc giã nổi lên khắp nơi. Đó là một điềm bất tường. Kinh Bắc thì có Thôn Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng. Đất Sơn Tây thì có Trần Tuân; Tam Đảo thì có Phùng Chương. Chúng dấy binh làm loạn, giết cả quan lại triều đình, hãm hiếp dân đen, đốt phá làng mạc. Dân gian không được an cư lạc nghiệp, ruộng nương bỏ hoang, cửi canh xao nhãng, cực khổ không biết thế nào mà kể cho hết. Tiếng oán thán nổi lên đầy trời.

LÊ TƯƠNG DỰC - Trẫm đã sai tướng đi đánh dẹp.

TRỊNH DUY SẢN - Còn một đám giặc nữa, dân chúng theo có hàng vạn người, thanh thế lừng lẫy...

LÊ TƯƠNG DỰC - Lũ Trần Cao chứ gì?

TRỊNH DUY SẢN - Tâu Hoàng thượng chính vậy. Trần Cao thấy sấm nổi ở phương đông có thiên tử khí, cùng đồ đảng đánh lấy đất Thụy Dương, Đông Triều, tự xưng là Đế Thích giáng sinh, nghiễm nhiên lập một triều đình riêng trong đất Việt... Hiện đã kéo quân đến Đế đô, chực hãm kinh thành.

LÊ TƯƠNG DỰC - Trẫm phải đợi đến ngươi tâu bầy, thì dễ lũ sương cuồng Trần Cao đã làm cỏ kinh thành. Ngươi cứ yên tâm. Trẫm đã sai An Hòa hầu Nguyễn Hoàng Du sang đóng quân ở Bồ Đề chống giữ, giặc đã chạy về Châu Sơn. Kinh thành này vững như bàn thạch.

TRỊNH DUY SẢN - Đã đủ đâu, còn các nơi?

LÊ TƯƠNG DỰC - Dẹp xong cả.

TRỊNH DUY SẢN - Cũng không hết. Dẹp bọn này, bọn khác lại nổi như đầu Phạm Nhan, bệnh nặng phải trừ từ rễ. Giặc giã nổi lên vì dân gian oán triều đình. Chính sự đổ nát...

KIM PHƯỢNG - Nguyên Quận công ăn nói lạ lùng!

LÊ TƯƠNG DỰC - Ngươi không nể mặt trẫm sao? Người trung thần không ai nói thế. Trẫm rộng lượng, vua khác thì ngươi đã không toàn tính mệnh.

TRỊNH DUY SẢN - Hoàng thượng nên xét cho lòng thành thực của hạ thần. Chính sự đổ nát lắm rồi. Muốn cho nước yên thì phải thể lòng dân, mà dân bây giờ ai cũng oán Vũ Như Tô, mấy lũ... cung nữ.

KIM PHƯỢNG (quỳ xuống) - Trời ơi! Thần thiếp có tội gì? (Nắm vạt áo long bào khóc).
LÊ TƯƠNG DỰC - Ái khanh đứng dậy. Ái khanh không có tội gì. (Nhìn Trịnh Duy Sản một cách giận dữ). Ngươi lui ra, ngươi lui ra. Cung nữ là phận liễu bồ không hề bước chân ra khỏi Tử cấm thành, hỏi họ có tội gì? Có ai dọa làm tội thê thiếp ngươi không, Trịnh Duy Sản?

TRỊNH DUY SẢN - Chính họ đưa Hoàng thượng vào con đường tửu sắc, con đường xa xỉ. Chính vì muốn đẹp lòng họ mà Hoàng thượng cho xây Cửu Trùng Đài.

LÊ TƯƠNG DỰC - Đó là ý trẫm. Ngươi không được nói nữa.

TRỊNH DUY SẢN - Còn như Vũ Như Tô nữa. Nó đã bày vẽ ra Cửu Trùng Đài, hao tiền tốn của vì nó, sưu cao thuế nặng vì nó, triều đình đổ nát, giặc giã như ong là vì nó. Kiệt Trụ mất nước chỉ vì cái bệnh xây cung điện. Xin Hoàng thượng mau mau tỉnh ngộ, tu tỉnh thân mình, xa gái đẹp, đuổi Vũ Như Tô, học thói thanh liêm, thương dân như con kẻo họa đến thân.

LÊ TƯƠNG DỰC - Duy Sản, ngươi bước ngay. Kẻo cái công hãn mã của ngươi trẫm không kể nữa. Trẫm phải nghe ngươi dạy khôn à?

TRỊNH DUY SẢN - Xin Hoàng thượng nghe lời hạ thần đuổi cung nữ, chém Vũ Như Tô... (nắm lấy áo vua).

LÊ TƯƠNG DỰC - Lão ương gàn, quân hủ nho... (rút kiếm) Bước!

TRỊNH DUY SẢN - Hạ thần xin chết về tay Hoàng thượng còn hơn là trông thấy ngày nhà Lê mất nghiệp (quỳ xuống vươn cổ).

(Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng)

Tóm tắt: Vũ Như Tô là vở bi kịch lịch sử gồm 5 hồi, viết về sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 - 1517 dưới triều Lê Tương Dực. Vở kịch xoay quanh cuộc đời nhân vật chính - Vũ Như Tô - một kiến trúc sư tài năng. Lê Tương Dực là một hôn quân, suốt ngày say mê tửu sắc, ăn chơi sa đọa, bỏ bê việc nước. Hắn muốn Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi cùng đám cung nữ. Vũ Như Tô vì quan niệm nghệ thuật thuần khiết, thanh cao đã đưa gia đình đi chốn nhưng vẫn không thể thoát khỏi tay sai của Lê Tương Dực. Khi bị giải vào cung, ông được cung nữ Đam Thiềm thuyết phục và đồng ý xây Cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí vào việc xây dựng cho đất nước một công trình kì vĩ, “tranh tinh xảo với hóa công”, để nước ta không hề thua kém với các nước láng giềng. Thế nhưng, ông đã vô tình gây ra biết bao tai họa cho người dân: Thuế khóa nặng nề, thợ giỏi bị bắt vào cung xây đài, tróc nã, hành hạ những người chống đối, biết bao người chết vì xây Cửu Trùng Đài khiến lòng dân oán hận. Quận công Trịnh Duy Sản đã nhiều lần can ngăn, khuyên giải nhưng Lê Tương Dực vẫn chấp mê bất ngộ. Nhân lúc tình hình rối ren, ông đã cầm đầu phe đối lập trong triều, dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết chết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và phá hủy Cửu Trùng Đài.   

Câu 1. Đoạn trích trên tái hiện lại sự việc nào?

Câu 2. Dẫn ra một lời độc thoại của nhân vật trong đoạn trích trên. 

Câu 3. Nhận xét về những chỉ dẫn sân khấu của vua Lê Tương Dực.

Câu 4. Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn sau: Giặc giã nổi lên khắp nơi. Đó là một điềm bất tường. Kinh Bắc thì có Thôn Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng. Đất Sơn Tây thì có Trần Tuân; Tam Đảo thì có Phùng Chương. Chúng dấy binh làm loạn, giết cả quan lại triều đình, hãm hiếp dân đen, đốt phá làng mạc. Dân gian không được an cư lạc nghiệp, ruộng nương bỏ hoang, cửi canh xao nhãng, cực khổ không biết thế nào mà kể cho hết. Tiếng oán thán nổi lên đầy trời.

Câu 5. Từ đoạn trích, em có nhận xét gì về bối cảnh xã hội lúc bấy giờ?

0