Viết bài văn biểu cảm về em trai mất khi mới đẻ ra
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Khác với thủ đoạn của bác phó may là vụng chèo khéo chống, chú thợ phụ đã dùng mánh khoé nịnh hót và tâng bốc là chính. Khi vừa mặc xong bộ lễ phục cho Giuốc-đanh, gã thợ phụ muốn xin tiền uống rượu nên khúm núm tôn xưng lão là ông lớn. Giuốc-đanh giật mình vì lần đầu tiên trong đời được gọi là ông lớn. Lão chưa dám tin ở tai mình, không biết có phải là nghe nhầm hay không nên hỏi lại cho chắc chắn. Chú thợ phụ lại càng tỏ vẻ lễ phép hơn : Bẩm, ông lớn ạ. Điều đó khiến cho Giuốc-đanh sướng lắm và cứ tưởng rằng hễ mặc lễ phục vào là nghiễm nhiên trở thành quý tộc: Ấy đấy, ăn mặc theo lối quý phái thì thế đấy Ị Còn cứ bo bo giữ kiểu cũ quần trưởng giả thì đời nào được gọi là “ông lớn”. Giuốc-đanh phóng thưởng cho chú thợ phụ: Đấy, ta thưởng về tiếng “ông lớn” đây này. Thấy lão đã mắc mưu, tay thợ phụ tiếp tục tâng bốc lão lên tận mây xanh, hết gọi là ông lớn, cụ lớn, rồi đến đức ông. Chúng ta hãy lắng nghe lời đối thoại giữa chú thợ phụ và con người mắc bệnh ảo tưởng Giuốc-đanh
đoạn văn sử dụng yếu tố trào phúng để chế giễu sự phù phiếm hám danh và dễ bị lừa của con người qua nhân vật giuốc-đanh tác giả muốn phê phán những người chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài mà không quan tâm đến bản chất bên trong , đồng thời đoạn văn cũng lên án sự xảo quyệt nịnh lọt của những kẻ tiểu nhân ( các yếu tố trào phúng này tạo lên tiếng cười nhẹ nhàng giúp người đọc thư giãn và đồng thời cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc về cuộc sống
Chiều hôm qua, em đã được chứng kiến một sự việc hết sức xúc động ở ngay khu phố nhà em.
Lúc ấy, khoảng 3 giờ chiều, một đám cháy bỗng bùng lên từ cửa hàng tạp hóa ở đầu ngõ. Sau tiếng kêu cứu của bà chủ quán, người dân xung quanh đồng loạt lao ra, cùng dập lửa. Người nhanh nhẹn gọi điện cho trạm cứu hỏa gần nhất. Các chú, các anh khỏe mạnh thì quấn khăn ướt lên người lao vào bên trong, cứu hai cháu nhỏ và bà cụ. Mọi người còn lại thì ra sức kéo những món hàng chưa cháy ở phía ngoài để giảm thiểu thiệt hại. Người thì kéo vòi, hứng nước, cố dập lửa, để không lan sang nơi khác. Lúc này, mọi người xung quanh em, từ anh sinh viên đến chị may vá, bác thợ xây đều hóa thành anh hùng. Mọi người không sợ nguy hiểm, không sợ lửa cháy. Tất cả đồng lòng giúp cứu người, cứu của. Ánh lửa sáng rực, nhưng không sáng bằng tình người, tình đoàn kết của người dân khu phố em. Sau một hồi căng thẳng kìm chân lửa, đoàn cứu hỏa đã đến. Từng cột nước xối thẳng vào đám lửa, dập tắt hoàn toàn đám cháy.
Sự kiện ấy khiến em vô cùng xúc động và kính phục mọi người. Nó không chỉ khiến em nhận ra sức mạnh của tình đoàn kết. Mà còn nhận ra được rằng, bất kì ai xung quanh chúng ta đều là những người hùng vĩ đại.
Bài Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, được viết vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, là một tác phẩm chính trị quan trọng, thể hiện rõ rệt tinh thần yêu nước và quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam. Luận điệu của bài Tuyên ngôn Độc lập mang tính chất khẳng định quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đồng thời phản bác những luận điệu xâm lược của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Trước hết, Hồ Chí Minh sử dụng một luận điệu sắc bén, căn cứ vào các lý thuyết về quyền con người để chứng minh rằng mọi dân tộc đều có quyền được tự do và độc lập. Lập luận của Người dựa trên tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789, từ đó khẳng định rằng dân tộc Việt Nam không phải là ngoại lệ trong việc đòi hỏi quyền tự quyết và thoát khỏi sự áp bức. Việc trích dẫn các tài liệu này làm cho luận điệu của bài Tuyên ngôn không chỉ có giá trị trong phạm vi quốc gia, mà còn mang tính quốc tế, gắn liền với cuộc đấu tranh chung của nhân loại chống lại sự áp bức, bất công.
Thứ hai, Hồ Chí Minh vận dụng luận điệu mạnh mẽ để chỉ trích và lên án chính quyền thực dân Pháp và phát xít Nhật, những kẻ đã cướp đi độc lập của dân tộc Việt Nam suốt hơn 80 năm. Người chỉ ra sự tàn bạo, sự bóc lột vô nhân đạo mà thực dân Pháp gây ra cho nhân dân Việt Nam, đồng thời tố cáo sự phản bội của Nhật Bản trong thời kỳ chiếm đóng. Đây không chỉ là sự tố cáo về hành động của các thế lực xâm lược mà còn là sự khẳng định rằng dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ chấp nhận làm nô lệ nữa.
Cuối cùng, bài Tuyên ngôn Độc lập mang một luận điệu khẳng định sức mạnh của nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ tuyên bố độc lập mà còn khẳng định rằng chính nhân dân Việt Nam là chủ nhân của nền độc lập đó. Người tin tưởng vào sức mạnh của quần chúng, vào khả năng đấu tranh và chiến thắng của dân tộc. Với một giọng điệu hùng hồn và đầy tự hào, bài Tuyên ngôn không chỉ là tuyên bố về quyền độc lập mà còn là lời kêu gọi tất cả người dân Việt Nam đoàn kết, tiếp tục chiến đấu để bảo vệ và phát triển đất nước.
Tóm lại, luận điệu của bài Tuyên ngôn Độc lập thể hiện sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tế, giữa lý tưởng và hành động. Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định quyền độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn nêu cao lòng tự hào dân tộc, niềm tin vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa. Bài Tuyên ngôn là một tác phẩm văn chính trị sâu sắc, phản ánh tinh thần bất khuất và kiên cường của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến giành lại độc lập tự do.