K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, người làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là Quảng Bình). Ông sinh ra trong một gia đình viên chức ngheo theo đạo Thiên Chúa. Cha mất sớm, ông sống với mẹ ở Quy Nhơn.

Học xong, Hàn Mặc Tử làm công chức cho sở đạc điền Bình Định rồi vào Sài Gòn làm báo. Đến năm 1936, mắc bệnh phong, ông về hẳn Quy Nhơn chữa bệnh rồi sau đó mất tại trại phong Quy Hòa năm 1940. Tuy cuộc đời có nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới.

2. Tác phẩm

Xuất xứ của bài thơ Đây thôn vĩ dạ khá đặc biệt. Khoảng giữa những năm 1932-1933, Hàn Mặc Tử làm nhân viên Sở đạc điền Bình Định. Thi sĩ có thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc quê ở Vĩ Dạ nhưng sống ở Quy Nhơn. Ít lâu sau Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, khi mắc bệnh phong, trở lại Quy Nhơn thì Kim Cúc đã theo cha về quê nhà. Nhà thơ đã nhờ một người bạn có việc ra Huế mang tập Gái quê tặng Cúc. Nhận được sách, Kim Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một bức tranh phong cảnh Huế có hình người chèo đò trên sông Hương với lời hỏi thăm hỏi chúc thi sĩ mau bình phục. Sau đó, khoảng năm 1939, Kim Cúc nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Hàn Mặc Tử tặng kèm theo mấy dòng cảm tạ chân thành.

Như vậy, có thể nói, bức tranh phong cảnh và những lời hỏi thăm của Kim Cúc đã gợi cảm hứng để Hàn Mặc tử viết Đây thôn Vĩ Dạ, thể hiện tình yêu thầm kín của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, cần hiểu rằng đây chỉ là một dyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với cuộc sống, với đất nước và con người.

II. Trả lời câu hỏi

1. Câu thơ mở đầu "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là câu hỏi mà thực ra là lời trách móc nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Thực ra câu hỏi vọng lên từ phương trời xa xôi ấy đã là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu về xứ Huế, trước hết là về Vĩ Dạ, nơi có người mà nhà thơ thương mến.

Câu thơ "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên" như phác qua cái nhìn từ xa tới, chưa đến Vĩ Dạ nhưng đã thấy hàng cau thẳng tắp, cao vút, vượt lên trên những tán cây khác, những tàu lá cau lấp lánh ánh sáng mặt trời buổi sớm mai. Câu thơ có 7 chữ mà có tới 2 chữ nắng, tưởng như Hàn Mặc Tử đã gợi đúng cái đặc trưng của nắng miền trung: nắng chiều và nắng rực rỡ ngay từ lúc bình minh.

Câu thơ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" lại là cái nhìn thật gần của người như đang đi trong những khu vườn tươi đẹp của thôn Vĩ. Từ mướt gợi sự tươi non, sạch sẽ, láng bóng của từng chiếc là dưới ánh mặt trời. Trong khi đó, hình ảnh so sánh xanh như ngọc gợi hình dung về những tán cây xanh mướt, mượt mà được ánh nắng mặt trời rực rỡ buổi sơm mai chiếu xuyên qua ánh lên màu xanh trong suốt như màu ngọc.

Trong ba câu đầu, con người chưa xuất hiện. Đến câu thơ thứ tư, sự xuất hiện ấy cũng không trọn vẹn. Nó ngượng ngùng, e ấp "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Một sự xuất hiện kín đáo rất đúng với bản tính của con người  đất Huế, bởi chỉ có thể thấy thấp thoáng sau những chiếc lá trúc là khuôn mặt chữ điền, khuôn mặt của người ngay thẳng, cương trực, phúc hậu theo quan niệm của người xưa. Nếu ta hiểu câu thơ đầu là lời của người con gái Huế thì ở câu này hẳn nhân vật trữ tình có lẽ là chủ nhân của "vườn ai". Thế nhưng nếu câu đầu là lời của tác giả thì cũng có thể hiểu đây là hình ảnh của người thi sĩ đang rất khổ đau.

2. Hàn Mặc Tử chuyển mạch thơ sang khổ thứ hai một cách khá đột ngột bằng những hình ảnh ấn tượng. Ở khổ thơ này tâm trí Hàn Mặc Tử hướng về sông Hương với hai nét tiêu biểu cho xứ Huế là êm đềm và thơ mộng. Nhưng không chỉ có vậy, câu thơ còn ẩn sâu trong đó là biết bao cảm xúc, suy tư của nhà thơ.

Trong hai câu đầu, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, hợp với nhịp điệu khoan thai của xứ Huế. Tuy nhiên, có vẻ như sự êm đềm chỉ ở cái hình thức bên ngoài, bởi câu thơ đã tàng ẩn một sự chia lìa, tan tác "gió theo lối gió, mây đường mây". Sự chia lìa đã diễn ra ngay trong cả những thứ vốn không thể chia lìa được. Động từ lay thật gợi buồn, buồn đến hiu hắt vây.

Hai câu thơ sau là hai chiều cảm xúc: tâm hồn nhà thơ có buồn , có cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu con người và thiên nhiên xứ Huế. Cảnh thực mà cứ như ảo, vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông sánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thể có thực trên sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng. Nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Chữ kịp hé mở cho ta một mặc cảm: mặc cảm về một hiện tại ngắn ngủi, hé mở cho ta thấy chủ thể đang cố chạy đua với thời gian.

3. Ở hai khổ thơ trên, Hàn Mặc Tử hướng đến thiên nhiên xứ Huế để mà tâm sự. Trong khổ thơ cuối này, nhà thơ trực tiếp tâm sự với người xứ Huế. Câu thơ mở đầu khổ như nhấn mạnh thêm nỗi xót xa "Mơ khách đường xa, khách đường xa" như lời thầm tâm sự của nhà thơ với chính mình trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ mãi chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế chỉ là người khách trong mơ mà thôi.

Câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời "Ai biết tình ai có đậm đà?". Đại từ phiếm chỉ "ai" mở ra hai lớp nghĩa của câu thơ dù hiểu theo theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

4. Về tứ thơ và bút pháp của bài thơ

- Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ. Ở bài thơ này, tứ thơ bất đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dàng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực - ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hy vọng và niềm tin yêu.

- Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hòa điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tính chất tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn, chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.

25 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Huy Cận (1919 - 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, tình Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê rồi vào Huế học trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông rồi tham gia mặt trận Việt Minh (1941). Sau Cách mạng, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, từng giữ nhiều trọng trách khác nhau, đồng thời có những đóng góp quan trọng trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

Thơ Huy Cận luôn thấm đẫm một nỗi buồn. Nó tất nhiên là cái điệu chung của thơ  mới, song nỗi buồn trong thơ Huy Cận có sắc thái riêng.

2. Tác phẩm

Toàn bộ Tràng Giang đều thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai  khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh. Ở bài thơ ngày, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc họa một bức tranh đầy đủ, hài hòa qua các khổ thwo, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.

II. Trả lời câu hỏi

1. Đề từ tuy nằm ngoài văn bản tác phẩm, nhưng lại tập trung thể hiện nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả. Câu thơ đề từ của bài thơ này là một ví dụ tiêu biểu. Lời đề từ ngắn nhưng đã thể hiện được một phần quan trọng hồn cốt của tác phẩm, nói cụ thể hơn đây chính là nỗi buồn trước cảnh vũ trụ bao la, bát ngát: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài".

2. Âm hưởng chung của bài thơ là âm điệu buồn, vừa dư vang vừa sâu lắng. Đó là nỗi buồn sầu ngấm sâu trong lòng tạo vật và trong tâm hồn nhà thơ. Âm điệu đó còn được tạo nên bởi nhịp điệu và thanh điệu của thể thơ thất ngôn.

3. Bài thơ tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên cổ kính, hoang sơ với tầm vóc mênh mang vô biên, đậm chất Đường thi. Chất liệu để tạo nên bức tranh đó là hệ thống các hình ảnh ước lệ thường được sử dụng trong thơ cổ.

Bài thơ có tựa đề Tràng giang, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề. "Tràng giang" chứ không phải trường giang mặc dù hai từ đều có chung một nghĩa. Nhờ cách điệp vần ang, tràng giang góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm buồn của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ, đặc biệt nó khơi gợi được xúc cảm và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian.

Trong khổ thơ thứ hai, chính Huy Cận đã thừa nhận: ở trong câu "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu", ông đã học chữ "đìu hiu" trong bản dịch Chinh phụ ngâm (Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò). Hơn thế, các hình ảnh đối lập, hình ảnh "chợ chiều vãn" gợi cái buồn da diết, không gian vắng lặng, cô tịch rất cổ điển.

Ở khổ thơ thứ ba và khổ cuối đều có thể tìm thấy những nét gợi nên hình ảnh bức tranh thiên nhiên trường gặp trong thơ xưa. Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những âm hưởng kì lạ do tác giả chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy và cách ngắt nhịp truyền thống. Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở hai câu thơ cuối. Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ đến quê hương - Hoàng Hạc Lâu, Huy Cận không cần có khói sóng - tức không cần cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn.

Sự hòa quyện của hai hệ thống hình ảnh vừa cổ điển vừa gần gũi, thân thuộc nêu trên tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp độc đáo: đơn sơ mà tinh tế, cổ điển mà quen thuộc.

4. Trước Huy Cận, đã có không ít các nghệ sĩ bày tỏ lòng yêu nước một cách xa xôi, bóng gió qua thơ văn như Gánh nước đêm của Trần Tuấn Khải, Thề non nước của Tản Đà... Trước Tràng giang, Huy Cận cũng đã từng viết về nỗi buồn sông núi- nỗi buồn của người dân thuộc địa khi giang sơn bị mất chủ quyền. Ở bài thơ này, nỗi buồn này, nỗi buồn sâu xa ấy đã hòa vào nỗi bơ vơ trước tạo vật thiên nhiên hoang vắng và niềm thiết tha với thiên nhiên tạo vật ở đây cũng là niềm thiết tha với quê hương đất nước.

5. Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hòa. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/lớn lao; không/có...

- Sử dụng thành công các loại tự láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp...). Các biên pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh...

26 tháng 2 2016

I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả

a. Cuộc đời
–     Huy Cận (1919 -2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận
–    Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ Mới
–    Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân
–    Quê làng Ân Phú huyện Lương Sơn tỉnh Hà Tĩnh
–    Hồi nhỏ ông học ở quê sau đó rời vào Huế học, sau đó là ra hà Nội học tại trường Cao đẳng canh nông
–    Từ năm 1942 ông tham gia cách mạng và tham gia nhiều cuộc hội nghị quan trọng
–    Không những thế nhà thơ Huy Cận còn làm cộng tác của nhóm Tự lực văn đoàn
b.     Sự nghiệp:
–   Trước cách mạng tháng Tám: 
•    Tác phẩm tiêu biểu: lửa thiêng, kinh cầu tự, vũ trụ ca…
•    Phong cách nghệ thuật của ông thời kì này là:  Thơ thời kì này mang một nỗi niềm u uất người ta gọi là nỗi sầu vạn kỉ
–    Sau cách mạng tháng Tám: 
•    Tác phẩm tiêu biểu: trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, bài thơ cuộc đời, hai bàn tay em, những năm sáu mươi…
•    phong cách nghệ thuật thời kì này của Huy Cận mang niềm vui hồ hởi hơn so với kì trước cách mạng tháng Tám, ông cũng mang một tâm trạng chung với toàn dân tộc đó là niềm vui xây dựng chế độ mới, và đấu tranh vì hòa bình dân tộc

2.    Tác phẩm

a.    Hoàn cảnh sáng tác: Nhà thơ Huy cận là một người có tâm hồn phong phú, ông dễ nhạy cảm với những khoảnh khắc của cuộc đời. điều làm nên tứ thơ của Tràng Giang đó chính là mỗi chiều chủ nhật ông thường đạp xe một mình lên đê ngắm dòng sông Hông lặng lẽ trôi, bốn bên bờ cát lặng, những hình ảnh thiên nhiên như lạc vào trong mắt ông. 
b.    Nhan đề:
–    Ban đầu nhà thơ đặt tên bài thơ là chiều bên sông, nhưng thấy đặt như thế thì cụ thể quá không có sức gợi tả 
–    Về sau Huy Cận đặt lại thành Tràng Giang
–    Tràng Giang có nghĩa là sông dài nhưng nhà thơ lại không đặt là sông dài hay trường giang
–    Tràng Giang là một từ hán Việt cho nên nó sẽ tạo được trang trọng cổ kính cho dòng sông Hồng
–    Thêm nữa vần “ang” được điệp lại trong hai từ -> âm hưởng như âm vang gợi cái mênh mông bao la rộng lớn của dòng sông Hồng
c.    Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
–    Hai chữ bâng khuâng thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ: cảm giác bâng khuâng trước tràng Giang rộng lớn
–    Trời rộng được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ

soan bai trang giang huy can

II.    Tìm hiểu chi tiết
1.    Bốn câu thơ đầu: cảnh nước thuyền và sóng

–    sóng Tràng Giang không ồn ào ồ ạt vỗ bờ mà thay vào đó gần như nó ở trạng thái tĩnh lặng chỉ gợn thôi. Cái chữ “gợn” thật mang nhiều tâm trạng
–    từ láy “điệp điệp” thể hiện nỗi buồn giằng giặc khó mà có thể thoát khỏi nó. phải chăng nỗi buồn của nhà thơ đang chế ngự chính nhà thơ, khiến nhà thơ không thể nào thoát khỏi nó được
–    Con thuyền xuôi hai mái nước song song, con thuyền thì lướt trên sóng, rẽ nước mà đi
–    Biện pháp nghệ thuật đối “về” >< “lại” -> sự chia li mang nỗi sầu trăm ngả
–    Một cành củi khô lạc mấy dòng -> sự cô đơn, giống như một đời người trôi dạt phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn của dòng đời
->    Bốn câu thơ gơi lên một nỗi buồn trăm ngả, cảnh tượng sông Hồng hiện lên nên thơ nên họa, Cảnh có đẹp đấy nhưng mà lại buồn man mác, nỗi buôn ấy không khiến cho người ta đau đáu trong lòng nhưng nó lại cứ bủa vây giằng giặc không chịu thôi

2.    Bốn câu thơ tiếp:

–    “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” -> sự thưa thớt, sự nhỏ bé -> cô đơn vắng lặng
–    Tiếng chợ chiều vãn nhỏ nhẹ->sự tàn úa giống như phiên chợ tan, đâu đó gần đây tiếng chợ chiều vang lên, phải chú ý lắm, phải tĩnh lặng lắm thì mới nghe được tiếng chợ chiều đó
–    Không gian ba chiều được mở ra , nhà thơ không dùng nắng cao chót vót mà dùng từ sâu chót vót để cho ta thấy được không gian bà chiều nhìn từ dưới lên bầu trời như sâu thẳm
–    Sông càng dài càng rộng thì bến đò người lái càng thấy cô đơn, cô liêu
->    Những hình ảnh bên bờ cũng trở nên buồn thiu khi mọi vật hiện lên đều thưa thớt và nhỏ bé. Nó gợi đến cho ta sự cô đơn đến ghê người. Không gian như cao hơn, hun hút hơn khiến cho con người càng nhỏ bé

3.    Bốn câu tiếp:

–    Những đám bèo hàng nối hàng cứ trôi lênh đênh gợi cho ta liên tưởng đến kiếp người lênh đênh trên dòng đời
–    Mênh mông như thế nhưng không có một chuyến đò ngang
–    Không có cầu để qua bên kia sông tìm một chút niềm thân mật
–    Mà chỉ lặng lẽ có một chút bờ cỏ xanh rồi đến bãi cát vàng
->    Không gian mênh mông như choáng ngợp lấy người nghệ sĩ, trên sông không một cây cầu bắc ngang để cho người qua lại để cho sông không còn vắng lặng như thế này nữa. Sông cũng không có lấy nổi một chuyến đò chỉ có bãi cát vàng với những bãi cỏ xanh làm bạn với nhau mà thôi.

4.    Bốn câu cuối:

–    về chiều những lớp mấy đùn lên trắng xóa như những núi bạc
–    Hình ảnh cổ điển: chim nghiêng cánh nhỏ đón buổi chiều buông xuống
–    Lòng nhớ quê của tác giả bỗng dợn lên vời con nước -> ý thơ được lấy gần giống với câu thơ của Thôi Hiệu, những ở đây nhà thơ không cần đến khói sóng tác động vẫn cứ dợn dợn nhớ nhà
->    Khổ cuối như kết lại những gì mà nhà thơ muốn thể hiện, nỗi buồn kia chính là nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà.

III.    Tổng kết

–    chàng sinh viên trường Canh Nông đã có những phút giây đắm mình trong không gian rộng lớn của Tràng Giang nhưng trong anh lúc ấy cũng xuất hiện thường trực, một nỗi lo âu về cuộc đời mình. đó còn là nỗi nhớ nhà, là nỗi sầu vạn kỉ. Bài thơ này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám

23 tháng 2 2016

CÂU 1.

Bố cục bài thơ : 3 phần

-         Phần 1 : 13 câu thơ đầu : Là sự thể hiện tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

-         Phần 2 : 16 câu tiếp : sự băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước quy luật của tạo hóa.

-         Phần 3 : còn lại : lời giục giã và tình yêu cuộc sống vội vàng của nhà thơ.

 

Câu 2. Đoạn thơ đầu : tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ

·        Bài thơ mở đầu với 4 câu thơ  5  chữ.

-          nghệ thuật điệp từ và điệp cấu trúc cú pháp.

-         Khẳng định một ước muốn táo bạo, mãnh liệt ( ngự trị thiên nhiên – đoạt quyền tạo hóa).

-         Ý tưởng của Xuân Diệu mang sự mới lạ, độc đáo, in đậm sự cách tân nghệ thuật của thơ mới và tính sáng tạo của nhà thơ.

=>Bốn câu đầu gói gọn cảm xúc và ý tưởng của bài thơ.

 

·        Bức tranh thiên nhiên :

-         Hình ảnh : ong, bướm, hoa, lá, yến anh và ánh bình minh.

=>Tất cả đều đang trong trạng thái căng tràn, viên mãn nhất : ong bướm – tuần tháng mật ; hoa – đồng nội xanh rì ; lá – cành tơ lất phất…Tất cả đều có đôi có lứa xoắn xuýt bên nhau như mời gọi.

 

-         Các biện pháp nghệ thuật :

+ Điệp từ «  này đây » => điệp khúc, vang lên như giục giã người đọc xốn xang theo từng câu thơ.

+ biện pháp liệt kê tăng tiến với các hình ảnh thơ : «  ong bướm », «  hoa của đồng nội », «  lá của cành tơ »…

+ cách dùng từ láy và từ ghép độc đáo : phơ phất, xanh rì, tuần tháng mật…

+ Nghệ thuật so sánh độc đáo : tháng giêng – cặp môi gần.

=>Hình ảnh so sánh độc đáo với lối diễn đạt mới lạ đã cho thấy quan điểm của nhà thơ về mùa xuân, cuộc sống, con người. Cái đẹp bắt nguồn từ sự tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn. .. Nhà thơ đã vật chất hóa khái niệm thời gian, bằng một hình ảnh cụ thể, hữu hình «  cặp môi gần ». Câu thơ không chỉ gợi hình mà còn gợi hương thơm, vị ngọt khiến người đọc đắm say ngây ngất.

 

·        Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy sức sống. Với nhịp thơ gấp gáp tạo nên cảm giác ngây ngất sung sướng của nhà thơ. Nó như là sự hối thúc, giục giã khiến mọi người bị cuốn vào cái guồng quay khẩn trương của tạo hóa để  tận hưởng thiên đường nơi trần thế.

 

Câu 3. Đoạn thơ 2 : quan điểm của nhà thơ về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với nỗi băn khoăn của tác giả trước cuộc đời.

-         Mùa xuân là thời đẹp nhất của thiên nhiên và con người. Mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ gắn liền với tình yêu.

-         Xuân Diệu cho thấy mùa xuân cũng chính là dấu hiệu bước chuyển dời thời gian đang xa dần.

-         Tuổi trẻ và tình yêu phải gắn liền với màu xuân. Và cũng theo quy luật của thời gian, tạo hóa, tuổi trẻ cũng không tồn tại vĩnh hằng.

-         Tuổi trẻ chẳng bao giờ trở lại, nó không tuân theo vòng tuần hoàn của vũ trụ.

=>Quan điểm hoàn toàn mới của Xuân Diệu về thời gian. Thời gian tựa nhưu một dòng chảy xuôi chiều, một đi không bao giờ trở lại. Tác giả đã lấy sinh mệnh con người làm thước đo thời gian, lấy thời gian hữu hạn của con người để làm thước đo vũ trụ.

 

-         Sở dĩ ông cảm thấy băn khoăn day dứt  ngay trong sug sướng rạp rực vì ông nhận ra thời gian, mùa xuân và tuổi trẻ đang đến nhưng cũng chính là lúc nó trôi đi và không bao giờ trở lại.

-         Cảm nhận về thời gian luôn thường trực trong tâm hồn thi sĩ. Ông cảm nhận rất rõ những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời. Ông xót xa nhận ra rằng tát cả những tươi đẹp của màu xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu sẽ ra đi không bao giờ trở lại.

=>Đoạn thơ cho thấy quan niệm về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ của nhà thơ. Đồng thời ta còn thấy được một Xuân Diệu khao khát đến cháy bỏng, giao cảm đến nồng nàn nhưng luôn cảm thấy lo sợ.

 

Câu 4. Đoạn thơ cuối : khát vọng sống, khát vọng yêu thương, cuồng nhiệt đến cháy bỏng.

-         Hình ảnh thơ tươi mới và tràn đầy sức sống. Đó là một thiên nhiên quyến rũ, tình tứ. Cảnh sắc lôi cuốn con người như muốn tan ra, muốn hòa mình vào thiên nhiên để tận hưởng : sự sống mơn mởn, cánh bướm với tình yêu…

-         Ngôn từ : sử dụng những động từ mạnh : ôm, riết, thau, cắn…

-         Nhịp điệu thơ được tạo nên bởi những câu dài, ngắn xen kẽ. Cùng với điệp từ «  ta muốn » => nhịp thơ sôi nổi.

-         Hình ảnh mởi mẻ và sáng tạo ( câu cuối).

=>Các hình ảnh và điệp từ …lột tả tận cùng sự cuống quýt, vội vàng của nhà thơ.

23 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Xuân Diệu (1916 - 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh khác là Trảo Nha. Quê cha của Xuân Diệu ở Hà Tĩnh nhưng ông sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn.

Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho, sau đó ông ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn là thành viên của Tự lực văn đoàn. Trước cách mạng, thơ Xuân Diệu là tiếng nói thiết tha với cuộc đời. Sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và giàu tính thời sự.

2. Tác phẩm

Vội vàng được in trong tập Thơ thơ (1938) là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám. Bài thơ thể hiện rất rõ ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới, mang đạm bản sác riêng của hồn thơ Xuân Diệu. Vội vàng là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của đời mình nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một tâm hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.

II. Trả lời câu hỏi

1. Bài thơ là dòng cảm xúc mãnh liệt, dạt dào, tuôn trào nhưng vẫn tuân theo mạch luân lí, có bố cục chặt chẽ. Bài thơ có thể được chia thành ba đoạn:

- Đoạn 1 (13 câu thơ đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế thiết tha

- Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn về sự  ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi quá nhanh chóng của thời gian.

- Đoạn 3 (còn lại): Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ trụ.

2. Thời gian của tự nhiên thì luôn tuân thủ theo quy luật vận động bất biến. Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận về thời gian thì ở mỗi thời đại và mỗi cá nhân lại có thể có những nét khác nhau.

Ở Xuân Diệu và nhất là trong Vội vàng, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới, một cảm nhận mới về thời gian. Thời gian thật sự khắc nghiệt, đời người có hạn và tuổi xuân ngắn ngủi.

                         Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua

                         Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Nhà thơ đã lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy khoảng thời gian quý giá nhất của mỗi cá nhân là tuổi trẻ để làm thước đo thời gian. Lời thơ được cấu trúc thành một cuộc tranh biện, theo đó nhà thơ khẳng định dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn, nhưng "tuổi trẻ chẳng hai lần nhắm lại".

                        Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

                         Lòng tôi rộng, nhưng lượng đời chứ cứ chật

                         Không cho dài thời trẻ của nhân gian

                         Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn.

                         Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Nhìn thấu sự trôi chảy quá nhanh chóng, một đi không trở lại của thời gian nên cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, chia lìa.

Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu, xét đến cùng là do ý thức sâu sắc về "cái tôi" cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh bình thường của đất nước, đây là một quan niệm và thái độ sống tích cực, thấm đượm tư tưởng nhân văn.

3. Vội vàng cuống quýt níu giữ thời gian, khát khao sống dạt dào cảm xúc với thời trai trẻ, Xuân Diệu đã phát hiện ra có một thiên đường ngay trên mặt đất này, không xa lạ mà rất đỗi thân quen, ở ngay tầm tay của mỗi chúng ta. Hình ảnh thiên nhiên và sự sống được Xuân Diệu gợi lên vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, tình tứ:

                       Của ong bướm này đây tuần tháng mật

                       Này đây hoa của đồng nội xanh rì

                       Này đây lá của cành tơ phơ phất...

Qua cách miêu tả hình ảnh thiên nhiên, Xuân DIệu đã thể hiện một quan niệm mới về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Đó lầ một quan niệm mới, tích cực, thấm đượm tinh thần nhân văn.

4. Đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu của đoạn thơ cuối bài:

- Hình ảnh trong đoạn thơ cuối gần gũi, quen thuộc mà tươi mới, giàu sức sống, đầy quyến rũ và tình tứ. Đó là những hình ảnh rất táo bạo, đầy cảm giác và có tính sắc dục.

- Ngôn từ của bài thơ tự nhiên, gần với lời nói thường, nhưng đã được nâng lên thành nghệ thuật Cảm xúc dạt dào, mãnh liệt đã tạo nên những làn sóng ngôn từ vừa đan vào nhau, vừa cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến.

- Nhịp điệu của đoạn thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

 

 

23 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Đạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Bút danh Tản Đà là tên ghép của hai địa danh ấy.

Ông xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo phương thức của tầng lớp tiểu tư sản thành thị; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và rất ham học hỏi để tiến kịp thời đại; là nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Sáng tác văn chương của Tản Đà chủ yếu vẫn theo các thể loại cũ nhưng nguồn cảm xúc lại rất mới mẻ... Thơ Tản Đà hay nói về cảnh trời. Điều đó đã trở thành mô típ nghệ thuật có tính hệ thống trong thơ ông. 

2. Tác phẩm

Bài thơ Hầu trời ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái xót đau. Nười tri thức có lương tri không thể không chấp nhận vào cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu.

Qua câu chuyện Hầu trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện "cái tôi" cá nhân - một "cái tôi" ngông, phóng tung, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.

II. Trả lời câu hỏi

1. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:

                                Đêm qua chẳng biết có hay không

                               Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

                               Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

                               Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.

Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng "chẳng biết có hay không". Đó là cách nhập đề là, một sự hư cấu nghệ thuật. Nó là cái cớ hoàn hảo để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong "cỗi mộng" của mình.

2. Câu chuyện chính trong "giấc mơ" của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và các vị chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc, chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tản Đà. Ông trời thì khen rất nhiệt thành, để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa.

Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ "bản ngã" cái tôi đó. Tản Đà đã rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thương đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ, tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện.

3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực:

                                  "Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

                                   Trần gian thước đất cũng không có

                                   ...

                                   Sức trong non yếu ngoài chen rấp

                                   Một cây che chống bốn năm chiều".

Trong đoạn thơ này nhà thơ nói đến nhiệm vụ truyền bá "thiên lương" mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó chứng tỏ Tản Đà lãng mạn nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời.

Xúc động nhất trong đoạn thơ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về cuộc đời của nhà thơ và của nhiều văn sĩ khác. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ. Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà.

Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng scahs nát và một be rượu.

4. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.

- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.

- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tếm gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ.

- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.

- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.

26 tháng 2 2016

Đề bài: Soạn bài Hầu trời của Tản Đà lớp 11
I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả

–    Tản Đà (1889 -1939) con người của hai thế kỉ
–    Tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ nhà văn nhà viết kịch nổi tiếng của văn học Việt Nam
–    Bút danh Tản Đà được ghép từ núi Tản sông Đà quê hương ông
–    Ông xuất hiện như một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam, với ngòi bút phóng khoáng, cái tôi tự tin và xông xáo trên nhiều lĩnh vực
–    Sự nghiệp:
•    Các tác phẩm tiêu biểu: tập thơ An nam tạp chí, hầu trời… các bài thơ dùng nhiều thể loại thơ khác nhau rất phong phú và đa dạng
•    Ngòi bút cũng thể hiện cái ngông nghênh của cá nhân

2.    Tác phẩm

a.    Hoàn cảnh sáng tác: vào những năm đầu của thế kỉ XX, lãng mạn trở thành những khúc thơ tâm tình của những người tri thức, bấy giờ xã hội thực dân phong kiến lại đầy những u hám, tối tăm và bất công. Người trí thức muốn chống lại song cũng chưa ai có dũng khi để làm. Nhà thơ Tản Đà đã sáng tác bài thơ này để thể hiện tấm lòng của mình
b.    Xuất xứ: in trong tập chơi xuân
c.    Bố cục: 3 phần
–    Phần 1: 20 câu thơ đầu: kể chuyện thi sĩ được mời lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên cùng nghe
–    Phần 2: tiếp đến Đế Khuyết: cuộc đọc văn và đối thoại với trời
–    Phần 3: còn lại: ra về và suy nghĩ

II.    Tìm hiểu chi tiết
1.    Kể chuyện thi sĩ lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên

–    Nhà thơ kể về chuyện mình lên tiếng, tự hỏi mình không biết thật hay mơ nhưng thật hồn thật phách thật thân thể
–    Khi ấy là canh ba mà nhà thơ chưa ngủ được bèn dậy đun nước uống trà và ngâm thơ làm văn
–    Bỗng có hai cô tiên xuống nói rằng chẳng hay làm gì mà không ngủ để cho trời đang mất ngủ đang mất, có hay thì lên đọc cho trời nghe coi
–    Tản Đà tỏ ra không sợ sệt điều gì mà tự tin cùng hai cô tiên lên đọc văn cho trời nghe
->   Cách mở đầu câu chuyện bằng thơ của Tản Đà quả thật rất hấp dẫn, nó mang đến cho người đọc cảm giác như quay trở về với cổ tích, truyện dân gian

soan bai hau troi tan da

2.    Cuộc đọc thơ cho trời và đối thoại với trời

a.    Khi mới lên
–    Đi theo hai cô tiên lên đường mây vù vù không có cánh mà cũng có thể bay được
–    Cảnh thiên môn đẹp trang trong đỏ chói
–    Nhà thơ thấy trời hành lễ cúi xuống lậy thì trời sai hai cô tiên lôi dậy lấy ghế mây ra cho ngồi  thiết đãi như một vị khách quý chứ không phải lên để bắt tội
–    Sau đó lại pha trà trời cho nhà thơ uống để nhấp giọng đọc văn
–    Nhà thơ có trà trời nhấp giọng cùng với sự đông đủ của trư tiên lại càng hăng hái đọc, đọc hết từ văn vần sang văn xuôi, sang cả tiểu thuyết 
->    Nhà thơ quả là một người có tài, xông xáo trên nhiều lĩnh vực
b.    Thái độ của trơi và chư tiên khi nghe nhà thơ đọc văn
–    Tâm thì như nở dạ, cơ lè lưỡi vì ngạc nhiên. Trời thì khen lấy làm hay
–    Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày, Thỏ Ngọc đứng lắng tai nghe
–    Nhà thơ tiếp tục nhắc đến những tạp thơ của mình.Nhà thơ than về bán văn dưới hạ giới trời còn khuyên mang lên đây bán chợ trời
–    Trời phê cho văn của Tản Đà những lời phê có cánh nhất, chau chuốt như sao băng, hùng mạnh như mây chuyển
c.    Đối thoại của trời và nhà thơ
–    Khi đọc xong, khen xong trời mới hỏi đến tên tuổi của nhà thơ. Khi ấy nhà thơ mới giới thiệu về quê quán cũng như tên thật của mình
–    Nhà trời cho xem lại sổ sách và nhận ra người này bị đày xuống vì tội ngông nhưng thực chất ra không phải là ngông mà là trời sai xuống làm việc lương thiện cho thiên hạ  trách nhiệm trọng trách của những nhà văn nhà thơ
–    Nhà thơ kể về những nỗi khó khăn của mình nhưng trời khuyên cứ về dưới, lòng thông không sợ gì
–    Xong việc sẽ cho trở về Đế Khuyết
->   Qua đoạn thơ này ta thấy tài thơ văn của Tản Đà quả thật là một bậc thiên tài. Ông tự tin nhận văn mình là hay. Đồng thời qua đây nhà thơ cũng thể hiện được trách nhiệm của nhà thơ nhà văn với cuộc sống này

3.    Cảnh ra về và suy ngầm của nhà thơ

–    Nhà thơ được tiễn về rất đàng hoàng
–    Trư tiên còn vương vấn tiễn biệt mà rơi lệ
–    Lúc về trần giới nhà thơ trông lên không còn ai, chỉ còn tiếng gà gáy và tiếng người dậy
–    Nhà thơ hối tiếc mong muốn được lên hầu trời

III.    Tổng kết

–    Bài thơ khẳng định tài năng của Tản Đà, không chỉ thông thạo thơ ca mà tác giả còn đạt được thành công trong tiểu thuyết kịch ca
–    Nghệ thuật: câu chuyện mang màu sắc cổ tích, sử dụng nhiều biên pháp nghệ thuật

22 tháng 2 2016

I. Tác giả - Tác phẩm

1. Tác giả

Phan Bội Châu (1867 - 1940) hiệu là Sào Nam, người lang Đan Nhiễm, nay thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Phan Bội Châu sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đen tối của lịch sử nước nhà. Ông cất tiếng khóc chào đời khi sáu tỉnh Nam Kì đã mất. Lớn lên, ông lại phải đau lòng chứng kiến từng mảnh đất quê hương lột dần vào tay giặc, phong trào Cần Vương chống Pháp lần lượt thất bại, đây đó nghẹ ngào những tiếng than tức tưởi "thời cơ đã lỡ rồi".

Trong hoàn cảnh đó, sau khi đỗ Giải nguyên (1900), Phân Bội Châu bắt đầu vào Nam ra Bắc, tìm người đồng chí, lập ra tổ chức cách mạng theo đường lối dân chủ tư sản đầu tiên ở nước ta là Hội Duy Tân (1904) với chủ trương đưa thanh niên sang Nhật học tập để mưu phục quốc. Nhưng rồi sự việc không thành, năm 1925, Phan Bội Châu bị thực dân pháp bắt cóc ở Trung Quốc rồi đưa về nước giam lỏng ở Huế cho đến lúc qua đời.

2. Tác phẩm

Năm 1905, sau khi thành lập, Hội Duy Tân chủ trương phong trào Đông du, đưa thanh niên sang Nhật học tập để chuẩn bị lực lượng cho cách mạng sau này, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài. Phan Bội Châu sang Nhật để lãnh đạo phong trào yêu nước ấy. Trước lúc lên đường, ông làm bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè, đồng chí.

Bằng giọng thơ đầy nhiệt huyết, sôi nổi và giàu sức thuyết phục, bài thơ đã khắc họa thật trân trọng vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà cách mạng Phan Bội Châu những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.

II. Trả lời câu hỏi

1. Văn học trung đại có loại thơ để nói chí, tỏ lòng. Bài thơ này cũng bộc lộ trực tiếp chí khí, hoài bão của tác giả. Nó rất gần gũi với Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ...Điều đặc biệt là chính cuộc đời và sự nghiệp của các tác giả đã minh chứng cho lí tưởng sống cao đẹp trong thơ.

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, đó là vào lúc tình hình chính trị trong nước hết sức rối ren. Chủ quyền đất nước đã hoàn toàn mất vào tay giặc, phong trào vũ trang chống thực dân Pháp theo con đường Cần vương đã thất bại không có cơ cứu vãn, chế độ phong kiến đã cáo chung, bao anh hùng, nghĩa sĩ cứu nước đã hi sinh...

2. Xuất dương lưu biệt là lẽ sống mới, là khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu trong buổi đầu ra dii tìm đường cứu nước.

                             Làm trai phải lạ ở trên đời

                             Há để càn khôn tự chuyển dời.

Do tư tưởng "trọng nam khinh nữ" trong xã hội phong kiến, "chí làm trai" chỉ dành riêng cho các bậc trượng phu, các đấng mày râu, không bao hàm phụ nữ. Hai câu thơ khẳng định một lẽ sống đẹp của trượng phu. Phải lạ nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc kinh thiên, động địa, xoay chuyển "càn khôn", chú không thể sống tầm thường, tẻ nhạt, buông xuôi theo số phận, chịu để con tạo xoay vần.

Nếu như hai câu thơ đầu là một mở đề thì hai câu thực kế tiếp triển khai cụ thể cái tư tưởng về "chí làm trai" ấy. Chí làm trai của Phan Bội Châu gắn với ý thức về cái "tôi", nhưng không phải là cái tôi cá nhân mà là một cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời.

                            Trong khoảng trăm năm cần có tớ

                            Sau này muôn thuở, há không ai?

Cuộc thế trăm năm này cần phải có ta, không phải là để hưởng lạc thú mà là để cống hiến cho đời, để đáng mặt nam nhi, để lưu danh thiên cổ. Câu thơ thứ nhất khẳng định dứt khoát, đến câu thứ hai, tác giả chuyển sang giọng nghi vấn, nhưng cũng để nhằm khẳng định quyết liệt hơn một khát vọng sống hiển hách, phát huy hết tài năng và chí khí cống hiến cho đời, để tên tuổi còn lại mãi về sau.

Đến hai câu luận, cái "chí làm trai" oai hùng kia được gắn với hoàn cảnh thực tế xót xa của nước nhà:

                                Non sông đã chết, sống thêm nhục

                                Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!

Câu 5 nói lên nỗi nhục mất nước, nỗi xót đau đốt chay tâm can nhà thơ, đồng thời cũng khẳng định ý chí thép gang của những con người không cam chịu sống cuộc đời nô lệ đắng cay. Nhưng đến câu 6 thì tư tưởng của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên, mang những sắc thái mơi của tư tưởng thời đại.

Bài thơ khép lại trong tư thế và khát vọng buổi lên đường của nhân vật trữ tình. Các hình ảnh ở hai câu thơ này đều hết sức lớn lao: bể Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc. Tất cả đều như hòa nhập với con người trong tư thế đang "bay lên". Hình ảnh kết thúc này thật lãng mạn, hào hùng, con người dường như được chắp đôi cánh thiên thần, bay bổng trên thực tại tối tăm, khắc nghiệt, vươn ngang tầm vũ trụ bao la.

3. Những yếu tố tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ của bài thơ:

- Khát vọng sống hào hùng, mãnh liệt của nhân vật trữ tình

- Tư thế con người kì vĩ, đầy lãng mạn, sánh ngang cùng vũ trụ

- Khí phách ngang tàng, dám đương đầu với mọi thử thách

- Giọng thơ tâm huyết, sâu lắng mà sục sôi, hào hùng.

 

22 tháng 2 2016

22 tháng 2 2016

I. Tác giả và tác phẩm

1. Tác giả Uy-li-am Sếch-xpia (1564 – 1616) là nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại thời Phục hưng, thời kì được coi là bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất từ trước đến bây giờ loài người chưa từng thấy, một thời đại cần đến những con người khổng lồ và đã sinh ra được những con người khổng lồ. Uy-li-am Sếch-xpia là người khổng lồ sinh ra trong thời đại đó. Uy-li-am Sếch-xpia trải qua tuổi thơ nhiều vất vả. Tuy nhiên, thời gian đó giúp cho ông có điều kiện làm quen với nghệ thuật để sau này trở thành dòng máu trong ông. Thời thanh niên của Uy-li-am Sếch-xpia cũng là giai đoạn phồn thịnh của nước Anh, là mảnh đất lí tưởng cho tư tưởng nhân văn phát triển. Đó là điều kiện để Uy-ki-am Sếch-xpia sáng tác nhiều tác phẩm bất hủ. Ông để lại 37 vở kịch gồm kịch lịch sử, bi kịch và hài kịch, phần lớn là kiệt tác của nhân loại. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái bao la và niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện và khả năng vươn dậy khẳng định cuộc sống của con người.

2. Tác phẩm Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch nổi tiếng đầu tiên của Uy-li-am Sếch-xpia, được viết vào cuối thế kỉ XVI, gồm năm hồi bằng thơ xen lần với văn xuôi, dựa trên câu chuyện có thật về mối  hận thù giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét, tại Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung cổ. Vở kịch dựa trên xung đột giữa khát vọng yêu đương mãnh liệt với hoàn cảnh thù địch vây hãm. Mối tình của Rô-mê-ô và Giu-li-ét khẳng định sức sống, sức vượt qua mọi hoàn cảnh trói buộc con người. Mối tình đó cũng là lời tố cáo đanh thép, kết án xã hội phong kiến. Tác phẩm cũng đạt đến tầm cao nghệ thuật tổ chức kịch tính, qua việc dẫn dắt hành động kịch và cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật. Đoạn trích Tình yêu và thù hận thuộc lớp 2, hồi II của vợ kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét.

II. Tìm hiểu tác phẩm

Câu 1. 6 lời thoại đầu trong bối cảnh đoạn trích Đây là giai đoạn độc thoại của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Từng nhân vật độc thoại để bộc lộ tâm trạng của mình. Mỗi nhân vật độc thoại ba bần xen kẽ nhau. Họ đều bộc lộ tình yêu tha thiết và say đắm của mình với người yêu nhưng nội dung các lời độc thoại của họ có nét khác nhau : Rô-mê-ô tập trung ca ngợi sắc đẹp lỗng lẫy của Giu-li-ét, còn Giu-li-ét lại quan tâm nhiều hơn đến chuyện dòng họ của Rô-mê-ô – dòng họ đã gây hận thù cho dòng họ của nàng. Có hai lời độc thoại dài nhất, bộc lộ rõ nhất tâm trạng của hai nhân vật : đó là lời độc thoại mở đầu của Rô-mê-ô và lời độc thoại khép lại giai đoạn này của Giu-li-ét. Mười lời thoại tiếp theo là giai đoạn đối thoại của hai nhân vật. Mỗi nhân vật có năm lời thoại, mở đầu là Rô-mê-ô và kết thúc là Giu-li-ét. Nội dung các lời thoại đều tập trung vào việc giải quyết mối hận thù giữa hai dòng họ để mở đường chắp cánh cho tình yêu của họ bay cao hơn.

Câu 2. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét thể hiện qua đoạn trích - Trong lời thoại của Rô-mê-ô : Nàng tiên lộng lẫy, nàng tiên kiều diễm, nàng tiên yêu quý của tôi ơi, đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu, tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em… - Trong lời thoại của Giu-li-ét : Em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa. Chàng ơi ! Hãy mang tên họ nào khác đi, chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi…

Câu 3. Diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô qua lời thoại đầu tiên. Đây là lời thoại dài nhất và là lời thoại độc thoại nội tâm của nhân vật. Lời thoại được viết rất trau chuốt với nhiều hình ảnh đẹp, nhiều liên tưởng độc đáo, thú vị, những so sánh bất ngờ, táo bạo. Tất cả nhằm bộc lộ tâm trạng yêu đương nồng cháy, đam mê, ngỡ như không có gì cản được của Rô-mê-ô khi trèo tường đến bên dưới phòng ngủ của Giu-li-ét. Trong tâm trạng đó, Rô-mê-ô chỉ còn nhìn thấy một số điều đó là Giu-li-ét đẹp như một nàng tiên lộng lẫy át cả vẻ đẹp của trăng sao trên bầu trời ; chỉ còn biết làm một việc duy nhất là tìm những lời đẹp đẽ nhất, những hình ảnh rực rỡ nhất để ca ngợi nhan sắc tuyệt mĩ của nàng. Đây là tâm trạng của chàng trai mà tình yêu đầy ắp trong tim, đã trào ra và tuôn chạy ào ạt như một khúc nhạc ái tình nồng nàn, ngây ngất, đắm say.

Câu 4. Diễn biến tâm trạng của Giu-li-ét Bởi tình yêu dành cho Rô-mê-ô nên Giu-li-ét chỉ nghĩ đến trở ngại lớn nhất là vấn đề hận thù dòng họ. Từ đó nàng có những suy nghĩ thật táo bạo : hoặc Rô-mê-ô từ bỏ dòng họ của chàng, hoặc nàng sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa. Đối với Giu-li-ét, điều quan trọng của con người là tình yêu chứ không phải là dòng họ : Bông hồng kia, giá chúng ta gọi bằng một tên khác thì hương thơm cũng vẫn ngọt ngào. Lời độc thoại nội tâm của nàng cho thấy tình yêu bùng lên mạnh liệt, giúp thêm sức mạnh cho cả Rô-mê-ô và nàng vượt qua sự thù hận của dòng họ. Ý nghĩa trong lời độc thoại nội tâm mà Giu-li-ét trở đi trở lại nhiều lần với bao day dứt, giằng xé trong tim. Đến khi đối thoại trực tiếp với Rô-mê-ô, nàng lại bày tỏ cùng chàng tâm trạng của mình để cùng chia sẻ và tìm cách vượt qua.

Câu 5. Việc giải quyết vấn đề tình yêu và thù hận Vấn đề thù hận dòng họ : thái độ của Rô-mê-ô rất kiên quyết. Ba trên năm lời đối thoại của Rô-mê-ô thể hiện thái độ dứt khoát của chàng trong việc giải quyết dứt điểm vấn đề thù hận : Tôi sẽ thay đổi tên họ ; sẽ xé nát  cái tên đó vì nó là kẻ thù của em ; chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó. Tình yêu có sức mạnh to lớn, có thể vượt qua được hận thù thể hiện trong lời thoại thứ 13 và 15 trong đoạn trích. Các câu như cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng thù hận của dòng họ nữa đâu thể hiện ý chí vượt qua tất cả để đến với tình yêu của Rô-mê-ô. Như vậy, có thể nói vấn đề tình yêu và thù hận đã được giải quyết dứt khoát qua 16 lời thoại, và trên tinh thần các lời thoại đó của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét, thì tình yêu đã chiến thắng hận thù. Đó là bản chất, sức mạn, vẻ đẹp của tình yêu con người mà Uy-li-am Sếch-xpia đã ca ngợi trong đoạn trích cũng như trong toàn bộ vở kịch. 

22 tháng 2 2016

I. Tìm hiểu tác giả – tác phẩm 
1. Tác giả

– Nguyễn Huy Tưởng (1912- 1960) xuất thân trong một gia đình nhà nho khá giả với tinh thần yêu nước cao ở xã Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). 
– Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động tích cực trong những tổ chức văn hóa nghệ thuật của Đảng.
– Ông là một nhà văn, một nhà viết kịch tài năng. Ông có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc. 
– Năm 1996, ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm

Vũ Như Tô là một vở kịch lịch sử. Tác phẩm này là cách nhà văn thể hiện quan điểm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, giữa nghệ sĩ và nhân dân…Đây là một kiệt tác làm nên thành cồn của Nguyễn Huy Tưởng.

3. Tóm tắt vở kịch.

Vở kịch gồm 5 hồi, viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực. Nhân vật chính trong vở kịch là Vũ Như Tô – một nhà kiến trúc tài ba, một người nghệ sĩ có trí lớn và là người trọng nghĩa khinh tài. Ông làm việc dưới triều vua Lê Tương Dực – một vị hôn quân bạo chúa, việc ông vua làm là sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để thỏa mãn trí ăn chơi của mình. Một nghệ sĩ như Vũ Như Tô đã không màng đến tiền bạc đã từ chối dù bị đe dọa kết án tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ đã khuyên Vũ Như Tô nên nhận lời xây Cửu Trùng Đài, Đam Thiềm khuyên rằng đây là một cơ hội để ông có thể đem tài năng ra phục vụ cho nhân dân, đất nước “ Ông cứ xây lấy một tòa đài cao cả. Vua Hồng Thuận là lũ cung nữ kia rồi mất đi, nhưng sự nghiệp của ông còn lại về muôn đời. dân ta nghìn thu được hãnh diện…”. Vũ Như Tô nhận lời xây Cửu Trùng Đài nhưng trái ngược lại chính khi Cửu Trùng Đài được xây việc đó đã làm dân chúng thêm khổ cực, rồi họ vùng vậy, cái kết thật đau thương Vũ Như Tô bị giết còn Cửu Trùng Đài kia bị thiêu trụi.

II. Đọc – hiểu văn bản

Câu 1: Các mâu thuẫn cơ bản của kịch Vũ Như Tô được thể hiện như thế nào trong hồi V?

Mâu thuẫn trực trực tiếp đó là việc dân chúng đứng lên đấu tranh trống lại triều đình. Mâu thuẫn cơ bản là bắt nguồn từ việc vua quan sống sa đọa, ăn chơi thỏa thích mà đời sống người dân thì cùng cực, nghèo khổ. Mặc cho nhân dân phải chịu những cực khổ như thế nào vua vẫn trà đạp lên những công sức lao động của họ mà hưởng lạc.

Mâu thuẫn thứ hai chính là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và về lợi ích thiết thực của việc xây Cửu Trùng Đài giữa mục đích của vua Lê Tương Dực và của Vũ Như Tô.Mâu thuẫn này đã đưa đến cái chết của Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài bị thiêu trụi.

Cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô ở lớp I của hồi kịch cho thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ chỉ biết vì nghệ thuật, việc xây Cửu Trùng Đài ông coi đó là một sự cống hiến nghệ thuật cho dân chúng và ông không nghĩ rằng đằng sau là cả một tai họa dân chúng chịu cảnh lầm than. Mục đích nghệ thuật của ông mâu thuẫn gay gắt với quyền lợi thiết thực của dân chúng mà ông không nhận ra được.Ông quên đi mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống bởi vậy mà ông không thể hiểu điều Đan Thiềm nói. Còn đối với dân chúng sự vùng lên là tất lẽ bởi họ đấu tranh cho quyền lợi của họ, họ chỉ biết Cửu Trùng Đài là nguyên nhân, nguồn gốc dẫn đến việc cuộc sống của họ phải  lầm than. Giữa Vũ Như Tô – một người nghệ sĩ có mục đích cao đẹp không có tiếng nói chung với nhân dân lao động.

Câu 2: Phân tích tính cách, diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô và Đan Thiềm trong đoạn trích.

Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ có tài với mục đích chân chính, là một người nghệ sĩ có tài và tâm đối với nghệ thuật. Do ông quá đam mê nhiệt huyết với con đường nghệ thuật của mình hy vọng những cái tốt đẹp nhất được cống hiến tài năng cửa mình cho đất nước.Khi nghe lời khuyên của Đan Thiềm, nhận xây Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô là người nghệ sĩ chỉ quan tâm đến nghệ thuật. Ông luôn ở tron tâm trạng mơ màng, ảo vọng.Ông không thể hiểu và không tin tâm huyết của mình đối với đất nước lại bị coi thường. Việc làm của ông đã dẫn đến một tai họa không lường trước được.

Đan Thiềm là một người có tâm, là người yêu quý và tôn trọng nghệ thuật, tôn trọng người tài. Đan Thiềm rất kính trọng tài năng của Vũ Như Tô, bà đã khuyên Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài với mục đích cống hiến tài năng nghệ thuật cho đất nước. Nhưng chính lời khuyên ấy bà đã nhận ra đó là sai lầm rồi đến cuối cùng trước khi bà chết đã nhận ra rằng sự thất bại của giấc mộng lớn mà bà mong một Vũ Như Tô thực hiện. Một con người yêu mên nghệ thuật và kính trọng những tài năng như bà khi nhìn thấy cảnh Cửu Trùng Đài bị cháy và Vũ Như Tô chết như vậy bà đau đớn tột cùng và đã thốt lên “ Đài lớn tan tành. Ông Cả ơi ! Xin cùng ông vĩnh biệt!”.

Vũ Như Tô và Đan Thiềm là hai con người cùng có tấm lòng cao cả tri kỉ, cùng mục đích nghệ thuật tốt đẹp nhưng cái kết thất bại thật thương tâm. Cửu Trùng Đài là biểu tượng tâm huyết của cả hai con người này đã bị hủy hoại, hai người thật đáng thương, đáng kính trọng hơn là đáng trách.
Nhà văn qua đây đã bộc lộ được sự cảm thông và trân trọng của chính tác giả đối với hai con người tri âm tri kỉ nhưng phải chịu một số phận nghiệt ngã, bất hạnh này.

Câu 3: Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời và lợi ích thiết thực của nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát. Điều đó được thể hiện như thế nào ở hồi cuối cùng của vở kịch?Theo anh (chị), nên giải quyết mâu thuẫn ấy như thế nào?
Mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân là mâu thuẫn không giải quyết được.Bởi vậy, tác giả chưa giải quyết được triệt để mâu thuẫn này là tất lẽ. Cái kết cuối cùng của số phận tài hoa mà bạc mệnh một cái chết mà không hiểu lí do vì sao mình chết. Vũ Như Tô, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài đều bị hủy diệt đã để lại những khúc mắc, mâu thuẫn, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nguyễn Huy Tưởng đã thể hiện được phần nào mối quan hệ này trong đoạn trích của mình. Cái gọi là nghệ thuật đích thực thì phải thống nhất với quyền lợi của con người thì mới có thể thăng hoa và tồn tài được. Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vị con người.

Câu 4: Đặc sắc về nghệ thuật của kịch Vũ Như Tô được thể hiện qua đoạn trích?

Đoạn trích thể hiện những đặc sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.

22 tháng 2 2016

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

 Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Hưng Yên), trong một gia đình quan lại phong kiến xuất thân khoa bảng bắt đầu sa sút. Ông đặc biệt thành công với loại truyện ngắn trào phúng. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan tập trung phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội cũ. Đối tượng phê phán của ông chủ yếu là bọn nhà giàu, quan lại, tư sản. Nguyễn Công Hoan là người có nhiều đóng góp vào sự phát triển của văn xuôi quốc ngữ.

Tác phẩm chính: Lá ngọc cành vàng (tiểu thuyết 1935), Cô giáo Minh (tiểu thuyết, 1935), Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938)... Kép Tư Bền (truyện ngắn, 1935), Hai thằng khốn nạn (truyện ngắn, 1937), Đào kép mới (truyện ngắn, 1937)... Đời viết văn của tôi (hồi kí, 1971) và một số tập truyện ngắn...

Tinh thần thể dục là một truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan. Tác phẩm phê phán thói giả dối, chính sách lừa bịp mị dân của bọn cầm quyền thực dân phong kiến. Quan trên sức giấy xuống bắt người dân xã Ngũ Vọng phải tập trung để lên sân vận động để xem bóng đá. Nhân dân trong xã không ai muốn đi. Người trốn chạy, người lo lót, người van xin để không phải đi xem bóng đá. Lý trưởng phải đe dọa, bắt bớ, lùng sục những cuối cùng vẫn không đủ số người đi xem theo lệnh quan trên. Cuộc dẫn người đi xem bóng đá diễn ra giống nhưu một cuộc bắt phu phen vậy. Câu chuyện được chia thành 6 đoạn. Mỗi đoạn thể hiện một nội dung. Sáu nội dung ấy tạo thành một cốt truyện chặt chẽ, được phát triển theo trình tự logic trước sau của việc bắt người đi xem đá bóng.

Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan giai đoạn 1936 - 1939 về cả hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật.

II. RÈN KĨ NĂNG

1. Truyện ngắn được chia làm sáu đoạn, mỗi đoạn kể một nội dung.

2. Đoạn 1 có thể gọi tên là lệnh quan trên. Đây là một cái lệnh khá đặc biệt, độc đáo, không giống những cái lệnh thông thường khác. Thường quan trên sức giấy bắt phu phen, thu thuế, bắt tội phạm... Còn ở đây quan trên sức giấy bắt người đi xem đá bóng.  Tác giả không dùng ngôn ngữ kể chuyện mà dùng cách để nguyên văn bản lệnh quan trên. Lệnh quan rất đầy đủ, đúng nghi thức một văn bản hành chính quan trọng. Lệnh quy định rõ số lượng người phải có mặt, những việc người đi xem phải làm... Điều đó cho thấy quan trên rất coi trọng việc thể dục này.

Đoạn 2 : van xin. Anh Mịch van xin ông Lí cho miễn cho việc đi xem bóng đá vì anh còn phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị. Nhưng lời van xin thống thiết của anh không làm ông Lí động lòng.

Đoạn 3: nài nỉ. Bác Phô gái xin ông Lí cho chồng mình không phải đi xem bóng đá với lí do ốm đau. Bác Phô còn mang theo cả cành cau biếu ông Lí. Lời van xin cũng không kém phần thống thiết những ông Lí cũng rất kiên quyết “Ốm gần chết cũng phải đi. Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó xem à?”.

Đoạn 4: đút lót. Bà cụ Phó Bính thức thời hơn, cũng bởi bà có tiền hơn. Bà có ba hào để đút lót ông Lí. Bà có tiền để thuê người đi thay. Vì vậy phản ứng của ông Lí nhã nhặn hơn. Ông không doạ nạt mà chỉ trách nhẹ “Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất”, sau khi đã bỏ ba hào vào túi.

Đoạn 5: Lùng sục. Người van xin, người nài nỉ, người chạy chọt, người trốn tránh khiến các ông lí dịch trong làng vô cùng vất vả với việc bắt người đi xem thể thao. Các nhà chức trách phải tróc nã, bắt bớ vất vả hơn cả bắt lính. Không khí trong làng như có trận càn. Đánh đập, quát tháo, chửi rủa. Cảnh tượng thương tâm nhất là ở nhà thằng Cò. Ôm con trốn ra đống rơm mà cũng không thoát. Kết thúc đoạn kể về chuyện lùng sục người ấy là hình ảnh “Thằng bé con nhắm nghiềm mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữa. Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi xềnh xệch đi”.

Đoạn 6: Lên đường. Không khí của buổi lên đường cũng không vui vẻ gì. Những người không may mắn, không thể trốn thoát được phải tập trung xếp hàng năm để lên đường đi xem bóng đá. Họ bị giải đi như đoàn tù binh.

3. Các đoạn nối tiếp nhau thể hiện sự tăng tiến tính chất gay gắt của việc bắt người đi xem bóng đá. Tác giả đã tạo nên một mâu thuẫn trào phúng rất đặc sắc. Đi xem bóng đá là một hoạt để thao nhưng trong câu chuyện này, xem bóng đá lại trở thành một tai hoạ với người dân.

Mỗi đoạn là một mâu thuẫn hỗ trợ làm nổi bật mâu thuẫn chúng của toàn bộ tác phẩm.

Đoạn 1: Yêu cầu người dân đi xem bóng đá, một hoạt động thể thao bằng một cái lệnh.

Đoạn 2: Vận động người đi xem bóng đá bằng vũ lực, nhu ưđi bắt phu, Anh Mịch van xin để không phải đi xem.

Đoạn 3: Bác Phô gái đến tận nhà lí trưởng để xin cho chồng không phải đi xem đá bóng. ..

4. Để làm nổi bật tính chất trào phúng của tác phẩm nhà văn đã dùng các thủ pháp nói giễu, cường điệu, giọng điệu kể chuyện tự nhiên hài hước. Nhà văn đã cường điệu hóa khi kể về phản ứng của người dân xã Ngũ Vọng trước việc phải đi xem đá bóng. Chắc chắn họ không cần phải trốn tránh đến mức đó chỉ vì một buổi đi xem đá bóng.

Giọng kể tự nhiên, pha tính chất hài hước để làm nên giá trị châm biếm của tác phẩm.

5. Tinh thần thể dục phê phán thói giả dối, chính sách lừa bịp mị dân của bọn cầm quyền thực dân phong kiến. Trong khi cuộc sống của dân chúng vô cùng khốn khổ thì chính quyền tay sai thực dân lại bày đặt những trò thể thao xa xỉ.

22 tháng 2 2016

Đề bài: Soạn bài vi hành của Nguyễn Ái Quốc văn lớp 11
I.    Tìm hiểu chung
1.    Tác giả

–    Hồ Chí Minh (1890 – 1969), là búp sen xanh của làng Kim Liên – Nam Đàn – Nghê An
–    Người sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo cha là ông nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan
–    Từ nhỏ Hồ Chí Minh đã thông minh và lớn lên đã được tiếp thu tư tưởng làm cách mạng
–    Sinh ra trong một thời đại đất nước làm nô lệ, Hồ Chí Minh đã đi theo con đường cứu nước và trở thành một vị lãnh tụ đầu tiên của nước Việt Nam ta.
–    Bác không chủ tâm làm thơ văn nhưng vì để phục vụ cho cách mạng và yêu thơ văn cho nên Bác đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị

2.    Tác phẩm

a.    Hoàn cảnh sáng tác: bài viết được Hồ Chí Minh viết trong một dịp vua Khải Định đến Pháp để dự một cuộc họp quan trong. Nói là dự nhưng vị vua này chỉ sang để nhầm che mắt thiên hạ mà thôi. Chính vì thế Bác đã viết bài Vi hành bằng tiếng Pháp đăng trên báo Nhân Đạo của Đảng cộng sản Pháp để tố cáo bộ mặt xấu xa của thực dân và vua bù nhìn

b.    Tình huống truyện

–    Tạo tình huống đặc sắc bất ngờ. Đó là hai người khách nước ngoài tưởng nhân vật tôi là ông vua nước Việt nên đã đưa ra những phán xét về con người này. Và qua những nhận xét đó để tố cáo bộ mặt giả dối của tên vua Khải Định
c.    Mâu thuẫn trào phúng: đó là sự nhầm lẫn giữa bản chất bên trong và hình thức bên ngoài, giữa bản chất bù nhìn sa đọa và bản chất việc làm của chính quyền thực dân khi đưa Khải Định sang thăm Pháp

II.    Tìm hiểu chi tiết
1.    Hình tượng nhân vật Khải Định

–    Ngoại hình:
•    Mặt mũi : da vàng bủng như quả chanh, mũi tẹt, mắt xếch -> vô duyên
•    Trang phục thì lố lắng chẳng ra một phong cách nào cốt chỉ để khoe trang sức lụa là có bao nhiêu là đeo hết lên người trưng diện
•    Điệu bộ: lấm lét lúng túng của phường ăn cắp vụng trộm
–    Hành vi: lấm lét lén lút vi hành
->    Chỉ bấy nhiêu thôi qua đấy ta thấy được bản chất của một ông vua bù nhìn. Những đánh giá của đôi trai gái kia là những đánh giá khách quan của thực dân Pháp đôi với hoàng đế Khải Đinh. Từ một ông vua hắn biết thành một thằng hề một con rối để mua vui cho dân Pháp, để làm tay sai cho thực dân Pháp và cuối cùng chỉ là một đứa con nít ngốc nghếch mà thôi.

2.    Sự tố cáo của tác phẩm

–    Nhà văn tố cáo chế độ thực dân với chế độ chính sách dã man và bịp bợm
–    Lên án chính sách ngu dân, đầu độc người dân bằng thuốc phiện và rượu cồn
–    Nhà văn còn vạch trần những chính sách lừa bịp quốc tế của thực dân, tung chiêu bài khai hóa văn minh nhưng thực chất là cướp nước
–    Tố cáo chế độ nhà tù, những truy nã bủa vay theo dõi những người yêu nước trên khắp đất Pháp

3.    Nghệ thuật trào phúng qua sự nhầm lẫn

–    Nhầm lẫn 1: đôi trai gái nhầm tác giả là Khải Định
–    Nhầm lẫn 2: người dân Pháp nhầm những ai da vàng là Khải Định
–    Nhầm lẫn 3: chính phủ Pháp nhầm những người việt Nam trên đất nước Pháp là Khải Định
->    Đó phải chăng là một sự ngu dốt của chính phủ Pháp

III.    Tổng kết

–    Với nghệ thuật châm biếm đặc sắc cùng những tình huống nhầm lẫn đáng ngờ tác giả mỉa mai mà qua đó tố cáo vạch trần bộ mặt giả tao ngu dốt của tên vua bù nhìn Khải Định. Đồng thời vạch trần tố cáo chính sách của thực dân Pháp

–    Với nghệ thuật châm biếm đặc sắc cùng những tình huống nhầm lẫn đáng ngờ tác giả mỉa mai mà qua đó tố cáo vạch trần bộ mặt giả tao ngu dốt của tên vua bù nhìn Khải Định. Đồng thời vạch trần tố cáo chính sách của thực dân Pháp

22 tháng 2 2016

1. Tác giả.

– Hồ Biểu Chánh là một nhà nho một nhà văn có nhiều đóng góp lớn lao cho nền văn học của Việt Nam.
– Ông là một tác giả có những sáng tác đều đặn, cần mẫn chăm chỉ trong những công việc sáng tác của mình.
2. Tác phẩm.
– Cha Con Nghĩa Nặng: là tác phẩm thứ 15 của Hồ Biểu Chánh, ông có những đóng góp lớn lao và thuộc những đề tài đa dạng.

3. Bố cục:

Chia làm 2 phần:
Phần 1: Từ đầu đến con hết quấy nữa.
Phần 2: Còn lại.

4. Tìm hiểu văn bản.
1. Tóm tắt truyện.

Câu chuyện đã kể về cha con của Trần Văn Sửu một người cha nặng ân tình với con, ông đã lẻn về thăm con những rồi sợ liên lụy tới con lên đã định nhảy sông tự tự, những sự đợi chờ dõi theo cuộc sống của con và ông ngoại đã làm cho ông có thêm một chút niềm tin để sống, ông mong chờ và mong sẽ có ngày gặp con. Trần văn Tý là một người con có hiếu không ghét bỏ mà hết mực yêu thương cha, bài đã thể hiện một tình cảm cha con sâu nặng và mang giá trị nhân đạo sâu sắc.

2. Phân tích tình nghĩa cha con trong đoạn trích:

– Tình cảm của cha con thật sâu nặng đã thể hiện trong bài viết: Khi dõi theo những hoạt động sinh hoạt và cuộc sống của con Trần văn Sửu đã gặp con, Trần Văn Sửu gật mình ngó đầu vô, rồi day mà ngó. Thắng tý thì chạy xiết lại nắm tay của cha nó.

– Những hình ảnh được miêu tả thể hiện tình cảm gắn bó của hai cha con, Tý dòm sát mặt vào nhìn, rồi ôm cứng trong lòng mà nói, cha ơi cha, những lời nói nghẹ ngào thể hiện sự có hiếu và yêu quý đối với người cha của mình, cha cha chạy đi đâu vậy mong muốn người cha sẽ quay lại ở bên mình.

– Hình ảnh cha ôm người con khóc thể hiện người cha cũng rất yêu quý người con, mong muốn được sống bên con những ông mang mặc cảm, không dám trở về.

– Những lời giao tiếp hội thoại của hai người đã thể hiện những tình cảm cha con rất gắn bó với nhau, hai cha con biểu hiện cho tình yêu lớn lao của cha dành cho con, và tình cảm có hiếu biết yêu thương quý trọng người cha của mình của nhân vật Tý.

– Hình ảnh đó được miêu tả để thể hiện tình cảm của hai người thật sâu nặng tác giả đã viết lên những chi tiết hết sức sinh động và thu hút được lòng người.


3. Để làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài về tình cha con nghĩa nặng tác giả đã tạo nên những mâu thuẫn để làm tăng thêm những tình cảm sâu sắc đó:

– Ông luôn mong muốn người con của mình được hạnh phúc, ông khuyên người con của mình phải tìm kiếm lấy hạnh phúc của riêng mình, khi người con nói lại và muốn chăm sóc người cha thì ông đã có những hành động khuyên ngăn và dứt khoát muốn cho con của mình được hạnh phúc: Con phải tìm lấy hạnh phúc của riêng mình, con đừng cãi lời của cha…

– Những tình huống đó làm tăng tính nghệ thuật trong bài viết: Với tình cảm sâu đậm đó người cha luôn mong ước cho người con, nhưng sự hiếu thảo của người con lại làm cho những mâu thuẫn giữa hai người xuất hiện.

– Việc tác giả tạo nên mâu thuẫn đó đã làm tăng sức thuyết phục và tặng lên tình cảm quý của người con và người cha.

4. Tính cách của người Nam Bộ:

– Nam Bộ là một vùng rất giàu tình yêu thương, thông qua nhân vật tình cha con sâu nặng chúng ta có thể thấy được tình yêu đó xuất hiện trong bài viết này. Tình yêu của người cha đối với người con đã tạo nên những cung bậc cảm xúc lớn, nhưng tình cảm chân thật thu hút được sự hấp dẫn và sâu lắng trong tác phẩm.

– Con người Nam Bộ hiện lên trong không khí chan hòa và đầy cảm xúc của con người.

5. Nghệ thuật kể chuyện:

– Tác giả đã kể lại câu chuyện theo một trình tự thời gian nó tạo lên những cảm xúc sâu lắng trong con người của tác giả, cách kể chuyện hấp dẫn cùng với cách sử dụng ngôn ngữ hấp dẫn, mộc mạc đã tạo nên một phong cách mới mẻ cho bài bài này.