Nêu giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo!
Truyện Kiều là tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Về tư tưởng, Truyện Kiều có giá trị hiện thực và giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm ngợi ca, trân trọng những giá trị của con người, đặc biệt là người phụ nữ với những phẩm chất như thông minh, thủy chung, hiếu thuận, nhân hậu, tự trọng... Cùng với thái độ ngưỡng mộ, trân trọng ấy là niềm cảm thương, đau đớn trước những số phận bi kịch; là tiếng nói đồng tình với khát vọng tự do sống, tự do yêu đương cũng như khát vọng công lí. Những khát vọng nhân bản ấy được đặt lên hàng đầu, nhiều khi vượt lên trên kiêm tòa của lễ giáo, thậm chí có khi đối nghịch với quy chuẩn đạo đức phong kiến, có được sự đồng của người đọc hiện đại.
Tham khảo!
- Truyện Kiều được dựa theo tiểu thuyết “Kim Vân Kiểu truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc. Có thuyết nói rằng Nguyễn Du viết truyện Kiểu sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820).
- Tác phẩm gồm 3254 câu thơ lực bát, dựa trên cốt truyện cuốn tiểu thuyết chương hồi: Kim Vân Kiều truyện.
Tham khảo!
Sống trong một thời đại đầy biến động dữ dội nên cuộc đời Nguyễn Du nếm trải nhiều thăng trầm. Ông có kiến thức uyên bác, trái tim nhân hậu và tài năng văn học bẩm sinh. Nguyễn Du để lại 250 bài thơ chữ Hán và một số tác phẩm viết bằng chữ Nôm, trong đó nổi bật nhất là Truyện Kiều.
Tham khảo!
a. Phép đối:
"Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e"
Phân tích: Hai trái tim đa tình, đa cảm đã có một tiếng nói chung. Thế nhưng vẫn dịu dàng, e ấp và kín đáo: "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Người đẹp đã làm cho chàng Kim choáng váng: "Chập chờn cơn tỉnh cơn mê". Trước tiếng sét ái tình. Kim Trọng vốn hào hoa, phong nhã đã làm chủ được tâm hồn trong một cuộc tình trường: "Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn". Cuộc chia li không thể không diễn ra. Khoảnh khắc chia li của lứa đôi trong buổi đầu gặp gỡ mang theo bao tình lưu luyến. Hai vế tiểu đối mà ra hai phía chân trời, tình lưu luyến mến thương kéo dài vô tận:
"Khách đà lên ngựa người còn ghé theo"
"Kẻ thiên tài" đã mang theo hình bóng "người quốc sắc" trở về nhà. Chiếc cầu và dòng nước trong veo, cành tơ liễu và bóng chiều thướt tha như những chứng nhân cho một thiên diễm tình giữa giai nhân và tài tử.
Tác dụng: gợi sự phong phú về ý nghĩa, gợi ra vẻ đẹp hoàn chỉnh và hài hòa cho sự vật.
b. Phép đối: Phận dầu dầu vậy cũng dầu
Phân tích: số phận ra sao cũng đành chịu không một lời oán thán gì nhưng trong câu này nhắc đi nhắc lại ba lần chữ dầu nhấn mạnh thái độ thụ động hoàn toàn của Kiều trước số mệnh, không còn một sức phản ứng nào.
Ý nghĩa: nhấn mạnh sự lực bất tòng tâm của Thúy Kiều.
c. Phép đối:
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”.
Phân tích: Đây là cảm nhận của Kiều về cảnh ngộ và số phận hai người. Cả hai đều cô đơn và nhỏ bé như nhau thấm thía một cảm giác lẻ loi bất lực: người về thì “chiếc bóng” kẻ đi xa thì “một mình” người thì “năm canh” vò võ thao thức kẻ thì “muôn dặm… xa xôi”. Lứa đôi ở hai phía chân trời cách trở. Kiều vừa thương mình vừa thương kẻ đi xa buồn tủi cho thân phận. Cấu trúc câu thơ rất đặc sắc được thể hiện ở cách sử dụng các số từ đặt trong thế đối lập tương phản: “chiếc” với “năm” “muôn” với “một” đã làm nổi bật nỗi buồn thao thức đơn chiếc lẻ bóng của nàng Kiều… là vô cùng vô tận.
Ý nghĩa: nhấn mạnh tâm trạng của Kiều và số phận lênh đênh trôi nổi của nàng.
Tham khảo!
a. Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Đây là phép điệp cấu trúc tám câu thơ cuối đại thi hào Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp điệp từ “buồn trông” để thể hiện nỗi buồn sâu sắc của Thúy Kiều. Từ “buồn trông” được lặp bốn lần như để thể hiện cho chúng ta thấy rằng tâm thế của Thúy Kiều đều đã bị gói trọn lại ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi đây, Kiều chỉ biết lấy cảnh sắc thiên nhiên để diễn tả nỗi buồn sâu thẳm trong thâm tâm mình.
b. Điệp từ "mình" được lặp lại 3 lần nhấn mạnh, hằn sâu nỗi đau đớn và nỗi xót xa của Kiều.
c. Điệp từ "cho" được lặp lại 6 lần nhấn mạnh bi kịch cuộc đời nàng. Mười lăm năm tha hương là mười lăm năm đoạn trường đầy gian truân của Thúy Kiều. Càng thương Kiều, Nguyễn Du càng yêu quý phẩm chất thanh cao, trong sạch của nàng. Ông đau xót cho một con người hồng nhan bạc mệnh.
Biện pháp tu từ lặp cấu trúc được sử dụng trong các đoạn thơ sau từ Truyện Kiều:
a. Trong đoạn thơ này, biện pháp tu từ lặp cấu trúc được sử dụng để tăng cường sự nhấn mạnh và đồng điệu. Cụm từ "Buồn trông" được lặp lại liên tục, tạo ra một nhịp điệu như là một âm nhạc u buồn, nhấn mạnh vào tâm trạng của nhân vật khi nhìn vào những cảnh vật trầm buồn. Sự lặp lại này cũng làm nổi bật những yếu tố mà nhân vật đang phải đối diện, tăng cường sự tương tác với độc giả.
b. Trong đoạn này, lặp cấu trúc "Khi...Khi" giúp tạo ra sự tương phản và so sánh giữa hai trạng thái tâm trạng khác nhau của nhân vật: khi tỉnh rượu và khi sao phong gấm rủ. Biện pháp này cũng làm nổi bật sự thay đổi và phức tạp trong tâm trạng của nhân vật, từ sự thư thả và thoải mái khi say rượu đến sự chấp nhận và tự thương khi tỉnh lại.
c. Trong đoạn này, biện pháp tu từ lặp cấu trúc "Đã cho lấy...Đã đày vào" tạo ra sự nhấn mạnh và cân nhắc, đặc biệt là trong việc diễn đạt sự hối tiếc và tiếc nuối của nhân vật. Sự lặp lại này cũng làm nổi bật sự đau đớn và cảm xúc của nhân vật trước quyết định và kết quả của cuộc đời.
Tham khảo!
Kết tinh nhiều thành tựu văn học dân tộc: cốt truyện, ngôn ngữ, xây dựng nhân vật, thủ pháp ước lệ,...