K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 5 2020

  Nhà thơ Tố Hữu là một người có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với nền văn học Việt Nam. Ông có nhiều những tác phẩm nổi tiếng mà trong đó phải kể đến bài thơ rất tiêu biểu là “Khi con tu hú”. Đây là một bài thơ được ông viết trong tù, hoàn cảnh ngục tù ngột ngạt, xiềng xích nhưng không thể trói buộc tâm hồn lạc quan và khao khát tự do của Tố Hữu.

Mở đầu bài thơ “Khi con tu hú” chính là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về mùa hè, tác giả đã vẽ bức tranh thiên nhiên ấy bằng sáu câu thơ đầu:

“Khi con tu hú gọi bầy…

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”

Chúng ta không cảm thấy quá bất ngờ trước cảnh tượng thiên nhiên, bởi đây là cảnh mùa hè quen thuộc của miền quê Việt Nam. Đó là một bức tranh hiện thực được mở ra bằng sự lắng nghe hiện tại và hồi tưởng quá khứ.

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

Tiếng tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến, lùa mùa màng đang tới và trái cây chín muồi, hoàn toàn theo quy luật của tự nhiên, tiếng chim gọi bầy như đang gọi mùa, mang đến sự náo nức, xôn xao trong đất trời và cả trong lòng người. Tiếng tu hú đã mang lại mạch sống của cây cối, mọi cảnh vật dường như đang ở trong thế động, lúa đang chín và trái ngọt dần. Nhà thơ Tố Hữu đã gửi gắm tâm tình của mình vào trong câu thơ, cái động của cảnh vật chính là tài của nhà thơ, gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu sự sống và yêu cuộc đời của tác giả.

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân…

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”

Mùa hè hiện lên rất sinh động và tươi đẹp, màu vàng của lúa, màu của trái cây cùng với âm thanh rộn ràng của tiếng ve ngân lên đón chào mùa hè. Trong chốn tù ngục, nhà thơ nhớ về tiếng ve, hình ảnh sân bắp phơi đầy, thèm muốn một cuộc sống thường nhật, bình thường như bên ngoài. Trong nhà ngục tối tăm, ánh sáng của thiên nhiên và bầu trời quả là xa xỉ đối với nhà thơ, thế nhưng nhà thơ đã tự tạo ra cho mình một bầu trời tươi đẹp như thế:

“Trời xanh càng rộng càng cao…

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”

  Hình ảnh diều sáo lộn nhào giữa không trung thể hiện cho khát vọng bay bổng, tự do, khao khát hòa nhập và tung hoành cùng thiên nhiên đất trời của tác giả. Tiếng sáo diều cao vút, rạo rực như chính tiếng lòng của người thanh niên Tố Hữu, mang trong mình tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát được sống trong thiên nhiên đã giúp cho nhà thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè trong trẻo, tươi mới và đầy màu sắc, âm thanh như thế. Để có được bức tranh đó, nhà thơ đã sử dụng các giác quan của mình, từ nghe, ngửi, nhìn để cảm nhận toàn bộ âm thanh, màu sắc và đường nét của mùa hè.

  Chỉ với sáu câu thơ đầu bài thơ “Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu đã làm hiện lên một khung cảnh thiên nhiên yên bình đặc trưng của làng quê Việt Nam. Bức tranh thiên nhiên mùa hè trong tâm hồn nhà thơ đã phản ánh khát vọng tự do cháy bỏng của tác giả trong chốn lao tù.Nhà thơ Tố Hữu là một người có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với nền văn học Việt Nam. Ông có nhiều những tác phẩm nổi tiếng mà trong đó phải kể đến bài thơ rất tiêu biểu là “Khi con tu hú”. Đây là một bài thơ được ông viết trong tù, hoàn cảnh ngục tù ngột ngạt, xiềng xích nhưng không thể trói buộc tâm hồn lạc quan và khao khát tự do của Tố Hữu.

  Mở đầu bài thơ “Khi con tu hú” chính là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về mùa hè, tác giả đã vẽ bức tranh thiên nhiên ấy bằng sáu câu thơ đầu:

“Khi con tu hú gọi bầy…

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không…”

  Chúng ta không cảm thấy quá bất ngờ trước cảnh tượng thiên nhiên, bởi đây là cảnh mùa hè quen thuộc của miền quê Việt Nam. Đó là một bức tranh hiện thực được mở ra bằng sự lắng nghe hiện tại và hồi tưởng quá khứ.

“Khi con tu hú gọi bầy

Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”

  Tiếng tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến, lùa mùa màng đang tới và trái cây chín muồi, hoàn toàn theo quy luật của tự nhiên, tiếng chim gọi bầy như đang gọi mùa, mang đến sự náo nức, xôn xao trong đất trời và cả trong lòng người. Tiếng tu hú đã mang lại mạch sống của cây cối, mọi cảnh vật dường như đang ở trong thế động, lúa đang chín và trái ngọt dần. Nhà thơ Tố Hữu đã gửi gắm tâm tình của mình vào trong câu thơ, cái động của cảnh vật chính là tài của nhà thơ, gắn với tình yêu thiên nhiên, yêu sự sống và yêu cuộc đời của tác giả.

“Vườn râm dậy tiếng ve ngân…

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”

  Mùa hè hiện lên rất sinh động và tươi đẹp, màu vàng của lúa, màu của trái cây cùng với âm thanh rộn ràng của tiếng ve ngân lên đón chào mùa hè. Trong chốn tù ngục, nhà thơ nhớ về tiếng ve, hình ảnh sân bắp phơi đầy, thèm muốn một cuộc sống thường nhật, bình thường như bên ngoài. Trong nhà ngục tối tăm, ánh sáng của thiên nhiên và bầu trời quả là xa xỉ đối với nhà thơ, thế nhưng nhà thơ đã tự tạo ra cho mình một bầu trời tươi đẹp như thế:

“Trời xanh càng rộng càng cao…

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”

  Hình ảnh diều sáo lộn nhào giữa không trung thể hiện cho khát vọng bay bổng, tự do, khao khát hòa nhập và tung hoành cùng thiên nhiên đất trời của tác giả. Tiếng sáo diều cao vút, rạo rực như chính tiếng lòng của người thanh niên Tố Hữu, mang trong mình tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát được sống trong thiên nhiên đã giúp cho nhà thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa hè trong trẻo, tươi mới và đầy màu sắc, âm thanh như thế. Để có được bức tranh đó, nhà thơ đã sử dụng các giác quan của mình, từ nghe, ngửi, nhìn để cảm nhận toàn bộ âm thanh, màu sắc và đường nét của mùa hè.

  Chỉ với sáu câu thơ đầu bài thơ “Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu đã làm hiện lên một khung cảnh thiên nhiên yên bình đặc trưng của làng quê Việt Nam. Bức tranh thiên nhiên mùa hè trong tâm hồn nhà thơ đã phản ánh khát vọng tự do cháy bỏng của tác giả trong chốn lao tù.

30 tháng 4 2020

bằng mấy bằng mấy nào

30 tháng 4 2020

14 đúng ko

30 tháng 4 2020

không biết

30 tháng 4 2020

các bn ko biết cũng ko sao ai biết thì trả lời ko thì bình luận góp ý nha

5 tháng 5 2020

1. Tham khảo bài viết trên Giáo dục thời đại:

1. Sang thu gồm mười lăm câu thơ, chia làm ba khổ, cả bài thơ chỉ có một dấu chấm (.): Mở đầu bài thơ là những tín hiệu báo thu về, tiếp đến là quang cảnh đất trời vào thu, và bài thơ được kết lại bằng những biến chuyển trong lòng cảnh vật và suy ngẫm của nhà thơ trước cuộc đời. Theo mạch vận động của tứ thơ, cảnh vật tựa hồ như một cuốn phim quay chậm dần hiện lên. Vẻ đẹp của bài thơ nằm trong chính mạch chuyển vận tinh tế ấy.

Sang thu được chia làm ba khổ khúc chiết, nhưng nhịp thời gian chuyển dịch qua ba khổ thật khó phân định. Từ đầu đến cuối bài thơ các hình ảnh thơ, trạng thái sự vật đều mang hơi thu, dáng thu. Đó là hương ổi, gió se, sương chùng chình, sông dềnh dàng, chim vội vã, nắng vẫn còn, mưa đã vơi, sấm bớt bất ngờ và hàng cây đứng tuổi… Nhưng thật ra, trong sự dính liền của hệ thống hình ảnh, vẫn có một sự chuyển vận của tự nhiên, của vạn vật khi đất trời sang thu.

Cả bài thơ đều nằm trong sự vận động sang thu, nhưng mỗi khổ thơ mang một dáng vẻ: Khổ một, cảnh vật là những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đâu đó của mùa thu từ góc nhìn vườn ngõ Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về; Khổ hai nghiêng về cảnh sắc thiên nhiên, mây trời, sông nước chuyển mình sang thu Sông được lúc dềnh dàng/ Chim bắt đầu vội vã, Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu; Khổ ba nghiêng về những những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo vật Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi.

Có thể thấy, ba khổ thơ làm nên hành trình chuyển vận của thiên nhiên: Từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ ngoài vào trong… Sự chuyển vận tinh tế nhưng cũng rất mãnh liệt. Từ sự chuyển vận của tứ thơ trên bề mặt câu chữ của bài thơ Sang thu, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã phát hiện ra “mạch cảm nghĩ” của thi sĩ trước mùa thu: “Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một …Hình như thu đã về, là đến niềm say sưa ở khổ hai …

Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu, và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm …Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm là các cấp độ của mạch nghĩ. Khổ đầu: Bất giác, khổ hai: Tri giác, khổ ba: Suy ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và chuyển hóa sang nhau trong cùng một dòng tâm tư. Chúng đan dệt với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi, phức tạp”.

Như vậy, rõ ràng là trong thế giới nghệ thuật của bài thơ Sang thu có một sự chuyển vận của đất trời và của dòng cảm xúc nhà thơ. Cấu trúc của chỉnh thể nghệ thuật ấy được tạo bởi sự chuyển vận ngầm đã mang lại cho người đọc những khám phá lý thú và bất ngờ.

2. Mở đầu bài thơ ta bắt gặp tiếng reo vui khi hồn thơ bất giác nhận ra những tín hiệu báo thu về:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Trong thơ thu, người đọc đã từng bắt gặp lá thu rơi trong thơ Lưu Trọng Lư, áo mơ phai dệt lá vàng trong thơ Xuân Diệu; hương cốm mới, cái chớm lạnh, xao xác hơi may trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Với Hữu Thỉnh, thu về bằng hương ổi, và gió se. Trong nhịp bước âm thầm của thời gian, đất trời chuyển từ mùa hạ sang thu, gió thu nhẹ nhàng mang theo chút hơi “se” rất đặc trưng của mùa thu Đồng bằng Bắc bộ, hương ổi “phả” vào trong gió, lan tỏa vào không gian. Đây thực sự là những hình ảnh đặc trưng của mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc, gần gũi với con người Việt Nam.

Trong “Lời tự bạch với Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh từng trầm ngâm kể: “…giữa đất trời mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ, điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra, đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông… Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con trẻ… Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta”.

Đến hai câu tiếp theo trong khổ đầu của bài thơ, chúng ta bắt gặp sự chuyển vận của đất trời rất tinh tế. Sự vật đang ở thế vận động mạnh - hương ổi “phả”, gió “se”, bỗng như chùng lại:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sương thu như muốn đọng lại, lưu luyến, ngập ngừng trong sự chuyển dịch chầm chậm qua ngõ. Từ láy “chùng chình” đặt giữa câu thơ tạo nên sự ngắt quãng nhịp nhàng (Sương/ chùng chình/ qua ngõ), mà vẫn chứa đựng sự chuyển vận của sương trong không gian thong thả, yên bình. Biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu thơ “Sương chùng chình qua ngõ”, như để diễn tả sự cố ý trong chuyển động chậm của sương. Nó như muốn giăng mắc vào giậu rào, níu vào nhành cây khô đâu đó ở trước ngõ, đầu thôn. Ở đây, sương mang vẻ duyên dáng, yểu điệu như bóng hình thiếu nữ chưa muốn rời bước trước ngõ nhà ai. Trong cái “chùng chình” của sương, có sự níu giữ của hồn thơ, có vẻ tư lự của thi sĩ trước thời khắc giao mùa.

Trong sự chuyển mình tinh tế của cảnh vật nhà thơ nhận ra “thu đã về”. Sự hiện hữu của nó cũng không thật rõ, nhà thơ chỉ phỏng đoán bằng cảm nhận -“hình như”.

3. Nếu ở khổ thơ mở đầu, tín hiệu mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ thì đến khổ thơ thứ hai, cùng với dòng chảy thời gian, thu bước ra khỏi thời khắc giao mùa, hiện hình rõ nét. Mùa thu đi từ ngõ để đến với không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Hơi thở của thu, đến đây đã rõ rệt hơn. Sự hiện diện của thu không còn mơ hồ, không phải “hình như”nữa mà đã cụ thể, hữu hình trong thiên nhiên và tạo vật:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Sông vào thu với dòng trôi “dềnh dàng”, thong thả, khoan thai, rất mềm mại và duyên dáng. Trên nền không gian ngưng đọng ấy, có chuyển động vội vã, gấp gáp của đàn chim trời trong hành trình di trú. Sự vận động của đất trời ở thời điểm giao mùa được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của cảnh vật.

Từ láy “vội vã” đặt trong vế đối với từ “dềnh dàng” ở câu trên tạo nên mạch vận động từ chậm đến nhanh, từ nhẹ đến mạnh. Phải chăng có sự tương phản giữa sông dềnh dàng và chim vội vã? Dềnh dàng cũng là sự vận động nhưng diễn ra chậm, còn vội vã là nhanh. Quá trình ấy phù hợp với quy luật vận động từ chậm đến nhanh.

Nhịp cầu mong manh giữa hạ sang thu, cuối cùng đã được cụ thể qua đám mây: Vắt nửa mình sang thu. Cả đất trời đang cựa mình thay áo mới. Hữu Thỉnh không tả trời thu “xanh ngắt mấy tầng cao” như Nguyễn Khuyến mà chỉ điểm vào bức tranh thu một chút mây vương lại của mùa hè đã qua - mây trời vắt nửa mình sang thu.

Hình như trong đám mây còn có làn nắng mùa hè. Hình như trong làn mây đã mang theo chút se của mùa thu. Đám mây mang trên mình cả hai mùa. Bước đi của thời gian trong hình ảnh “đám mây” vừa mãnh liệt lại vừa vô cùng tinh tế. Đó là cái tinh tế của hồn thơ nhạy cảm trước những chuyển vận của tạo vật ở thời khắc giao mùa.

Sang thu âm thầm nhưng thi sĩ vẫn cảm nhận được được sự khẩn trương trong mạch vận động.

4. Ở hai khổ thơ đầu, thu hiện hình bằng hình ảnh, bằng sự chuyển động được nhìn thấy thì ở khổ cuối, thu lắng sâu vào suy ngẫm. Hình tượng thơ, bởi vậy mang tính triết lý sâu xa:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Vẫn là nắng, mưa, sấm, chớp của mùa hạ vương lại đâu đây, song chỉ là “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ” bởi mùa thu không phải “hình như… đã về” mà đã hiện hữu trong không gian. Trong sự vận động của tứ thơ, theo mạch cảm, mạch nghĩ (từ bất giác sang tri giác đến suy ngẫm, theo ba khổ thơ), “nắng”, “mưa”, “sấm” không chỉ là hình ảnh tự nhiên mà còn mang tính biểu tượng - cho những sóng gió, thăng trầm trong cuộc đời mà con người phải trải qua.

Rồi đây nàng thu sẽ ngự trị cảnh vật nhưng tác giả vẫn tin rằng hàng cây đứng tuổi vẫn còn đó. Thời gian mang tính lưỡng giá ấy để nhà thơ suy ngẫm trước cuộc đời. Qua bão giông, sóng gió của cuộc đời con người cần vững vàng, điềm tĩnh đón nhận mọi thử thách.

5.Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể được biểu hiện qua mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và hình thức. Nếu như nội dung thể hiện tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của người nghệ sĩ thông qua các chất liệu lấy từ cuộc sống thì hình thức là hình tượng, thể thơ, từ ngữ, hình ảnh, nói cách khác là hệ thống các phương tiện diễn đạt để chuyển tải nội dung của người nghệ sĩ. Hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khăng khít với nhau. Sang thu là một bài thơ như thế.

Sang thu được viết bởi thể thơ năm chữ. Sự lựa chọn thể thơ xuất phát từ sự đòi hỏi của nội dung, từ cái nhìn của tác giả, cái mạnh của thể thơ năm chữ là chất hoài niệm, hễ non tay thì thành vè (Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ, tr.104). Chọn thể thơ này là một thử thách nghệ thuật, bởi thơ năm chữ còn gọi là thơ ngũ ngôn có cội nguồn là thể thơ truyền thống có mặt trong các sáng tác dân gian qua thể loại vè và đồng dao, tính chất cổ kính cùng với sự hạn chế về câu chữ khó diễn đạt tình cảm. Tuy nhiên, một số nhà thơ như Xuân Quỳnh với Sóng; Hữu Thỉnh với Sang thu đã rất thành công ở thể thơ này với chỉnh thể chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa vần với nhịp:

Theo vị trí hiệp vần, Hữu Thỉnh sử dụng vần chân:

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Theo mức độ hoà âm giữa các tiếng hiệp vần ông sử dụng vần thông:

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi

Điều khá thú vị ở đây là đường nét thanh điệu của bài thơ, theo thống kê, bài thơ có 60 âm tiết thì có đến 33 âm tiết vần bằng, 27 âm tiết vần trắc. Vấn đề ở đây là có nhiều cặp câu nhà thơ tạo ra sự phối thanh nhịp nhàng, nếu câu thơ trước kết thúc bằng âm tiết vần trắc thì câu thơ sau đó kết thúc là âm tiết vần bằng, sự hiện diện của nhiều thanh bằng. Ví như sự phối hợp nhịp nhàng các cặp câu: (bảng 1)

Chính sự hiệp vần ấy tạo nên sự êm ái, nhịp nhàng phù hợp với lối tâm tình và hoài niệm của tác giả.

Theo Mai Ngọc Chừ: Sự ngừng nhịp trong dòng thơ phụ thuộc vào nội dung, ý nghĩa và vào từng thể thơ cụ thể (Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học, tr. 38). Để tránh sự đơn điệu của thể thơ truyền thống trong cách ngắt nhịp, Hữu Thỉnh thể hiện sự tìm tòi đổi mới qua cách ngắt nhịp linh hoạt 2/3: Hình như/ thu đã về; 1/2/2: Vắt/ nửa mình sang thu. Ngoài ra, có nhiều câu không có nhịp cắt giữa dòng, mỗi dòng thơ là một nhịp:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Không gò ép và gọt dũa cầu kỳ, Hữu Thỉnh đã để lại trong lòng người đọc những câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu, cách xử lý nghệ thuật của ông thể hiện sự tìm tòi sáng tạo.

5 tháng 5 2020

Trong kho tàng văn học Việt Nam luôn “tràn đầy” những trang thơ về mẹ. Bởi vậy, không hề khó để ta có cơ hội cảm nhận về người đã “mang nặng đẻ đau” khi tiếp cận với văn chương. Và giữa vùng thơ văn dạt dào tình mẹ, Y Phương đã lấp đầy khoảng trống để ca ngợi cha và tình cha. Nói với con là tác phẩm hay nhất của nhà thơ miền núi thể hiện chân thực tình cảm thương yêu vô bờ bến của người cha với đứa con thân yêu. Qua hình ảnh phụ – tử, nhà văn còn nêu ra trước mắt độc giả nhiều quan niệm nhân sinh sâu sắc.


Với cách nói, cách diễn đạt, cách nói ví von qua những hình ảnh cụ thể diễn tả mộc mạc gợi cảm và mạnh mẽ, cả bài thơ là lời khuyên bảo ân cần của người cha đối với con và ước muốn của người cha cũng được thể hiện xuyên suốt bài thơ. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động còn nhiều vất vả, gian lao và thử thách; con sống trong một dân tộc với những truyền thông và đức tính tốt đẹp. Không những thế, qua Nói với con Y Phương còn nêu lên lòng tự hào về sức sống mạnh mẽ của quê hương và mong ước người con kế tục được những truyền thống tốt đẹp đó của quê nhà.Cả bài thơ là lời tâm sự cùa người cha, giàu cảm xúc, tuy cách diễn tả mộc mạc nhưng vẫn giúp người đọc cảm nhận được hết cái thần, hồn của nó.

Bốn câu thơ đầu bài thơ là tình yêu thương của cha mẹ đối với con:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Một không gian đầm ấm của một gia đình hoà thuận, hạnh phúc gần như được bộc lộ hết chỉ qua bốn câu thơ.Gia đình là cái nôi, là nơi xuất phát mà cha mẹ tạo dựng cho con. Người con lớn lên trong sự yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ và người con lớn lên, trưởng thành bởi sự chở che của cha mẹ, trong không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt.

Người cha không chỉ gợi lại cho con về gia đình mà còn gợi lại cho con nhớ về cội nguồn, nơi nuôi dưỡng dạy bảo con khôn lớn nên người:

Người đồng minh yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.

Những câu thơ tiếp, người cha không muốn nói gì hơn rằng con đã lớn lên, trưởng thành trong cuộc sống thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương, con sống trong cuộc sống lao động vất vả, gian lao. Người đồng mình yêu lắm con ơi câu nói gợi tình cảm cộng đồng. Hai câu thơ tiếp theo Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát diễn tả hành động trong các công việc khác nhau. Từ đây người con biết rằng mình lớn lên trong cuộc sống lao động, trong tình cảm nhân hậu của quê hương. Những hình ảnh như đan, ken lại gợi cho ta một sự gắn bó khăng khít giữa người với người, chắc chắn như không thể tách rời.

Những câu thơ tiếp theo:

Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc

Người cha đã cho người con thấy rõ đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước rất giản đơn của người cha. Ba câu đầu là đức tính cao đẹp của người đồng mình. Cuộc sống lao động dù có vất vả nhưng mạnh mẽ khoáng đạt, bền bỉ, gắn bó với quê hương. Ngoài ra, hai câu thơ Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn còn thể hiện sức mạnh, chấp nhận mọi thử thách và quyết vươn lên băng ý chí của mình. Những đức tính cao đẹp đó người cha muôn truyền lại cho con. Thể hiện trong ước muốn cùa người cha là người con phải tiếp tục kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương. Cuộc sống dù có khó khăn đến đâu thì cũng phải đứng vững gắn bó với quê hương, không bao giờ được rời bỏ quê hương mà phải vươn lên bằng ý chí của mình.

Người đồng mình thô sợ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé Nghe con.

Lại một đức tính nữa mà người cha muốn truyền cho con: người đồng mình tuy mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Bằng tâm hồn, ý chí của họ, bằng sự lao động cần cù nhẫn nại hàng ngày đã làm nên quê hương với những truyền thống tốt đẹp. Qua đây người cha còn muốn nhắn nhủ với con rằng sống phải có tình, có nghĩa, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận vượt qua mọi gian lao thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Hơn thế nữa, người con còn biết tự hào truyền thống quê hương, tự tin vững bước trên đường đời.

Nhưng xuyên suốt cả bài thơ lại là tình cảm cha con thắm thiết. Đó chính là tình yêu thương trìu mến, thiết tha thể hiện qua niềm tin tưởng của người cha qua lời Nói với con. Điểm lớn nhất người cha truyền cho con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ, cuộc sống cao đẹp của quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Với giọng thơ tha thiết trìu mến, ở các lời tâm tình dặn dò với cách dẫn dắt rất tự nhiên Y Phương đã tạo nên sự gắn bó, tình yêu thắm thiết giữa cha và con.

Nói với con là một thành công lớn trong con đường sự nghiệp của Y Phương. Với những lời nói rất đỗi mộc mạc và giản dị tình cảm cha con hiện lên là một tình cảm vô cùng thắm thiết và cao đẹp. Bài thơ là lời khuyên bảo và ước mong của người cha đốì với con, muốn con kế thừa đức tính tốt đẹp của người đồng mình, biết tự hào truyền thống quê hương, yêu quê hương, tự tin trên đường đời và cố gắng vươn lên, vượt qua mọi thử thách để xây dựng quê hương với những truyền thống tốt đẹp.

30 tháng 4 2020

a.mái chèo/chèo thuyền

30 tháng 4 2020

- Trong bài thơ, tiếng tu hú được nhắc lại 2 lần Tiếng chim tu hú gọi bầy đã làm sống dậy trong lòng tác giả cảnh sắc của mùa hè rạo rực, mê say.

- Những chi tiết biểu hiện vẻ đẹp, nhịp sôi động của mùa hè:

+ Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần – hương vị ngọt ngào, mời gọi.

+ Tu hú gọi bầy, vườn râm ve ngân – gợi liên tưởng âm thanh vui nhộn, đặc trưng của mùa hè.

+ Trời xanh cao, diều sáo lộn nhào tầng không – không gian khoáng đạt, tự do.

→ Tiếng chim tu hú gọi mùa đã mở ra vẻ đẹp chào mời hấp dẫn của mùa hè. Mọi diễn đạt đều bắt nguồn từ cảm nhận bằng hồn thơ tinh tế, tình yêu cuộc sống, khao khát tự do mãnh liệt. Bức tranh thiên nhiên cũng vì thế vui nhộn, giàu sức sống.

# hok tốt nha #

bạn kham khảo nha :

- Trong bài thơ, tiếng tu hú được nhắc lại 2 lần Tiếng chim tu hú gọi bầy đã làm sống dậy trong lòng tác giả cảnh sắc của mùa hè rạo rực, mê say.

- Những chi tiết biểu hiện vẻ đẹp, nhịp sôi động của mùa hè:

+ Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần – hương vị ngọt ngào, mời gọi.

+ Tu hú gọi bầy, vườn râm ve ngân – gợi liên tưởng âm thanh vui nhộn, đặc trưng của mùa hè.

+ Trời xanh cao, diều sáo lộn nhào tầng không – không gian khoáng đạt, tự do.

→ Tiếng chim tu hú gọi mùa đã mở ra vẻ đẹp chào mời hấp dẫn của mùa hè. Mọi diễn đạt đều bắt nguồn từ cảm nhận bằng hồn thơ tinh tế, tình yêu cuộc sống, khao khát tự do mãnh liệt. Bức tranh thiên nhiên cũng vì thế vui nhộn, giàu sức sống.

# chúc bạn học tốt #

30 tháng 4 2020

Hôm đó là sáng chủ nhật vui tươi, hớn hở ở rạp xiếc Trung Ương, em được đi xem xiếc cùng Cẩm Tú, Khánh Hòa và Lan Phương. Vừa bước vào rạp, cả bốn chúng em đã lóa mắt vì những ánh đèn bảy sắc cầu vồng hắt vào sân khấu và từ hội trường xuất hiện một nghệ sĩ xiếc. Ba, bốn, năm, sáu trái bóng được tung lên từ tay nghệ sĩ và đó chính là màn mở đầu của chương trình " Ga la xiếc và ảo thuật đầu năm 2012". Buổi biểu diễn có rất nhiều tiết mục đắc sắc như: xiếc thú, ảo thuật, hề, uốn dẻo, đu dây,.......Tiết mục nào cũng đặc sắc nhưng tiết mục nuốt kiếm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng em. Vừa nghe tên tiết mục em đã thấy hồi hộp, hấp dẫn rồi. Sau mỗi tiết mục, màn biểu diễn đều có những tiếng nói cười và những tiếng vỗ tay làm bốc cháy cả sân khấu. "Ga la xiếc và ảo thuật đầu năm 2012" là buổi biểu diễn hồi hộp và hấp dẫn nhất mà em từng được xem. Em sẽ chăm chỉ học tập và ngoan ngoãn đề được mẹ cho đi xem buổi biểu diễn hồi hộp tiếp theo.

Tham Khảo

30 tháng 4 2020

Em đã được xem một buổi biểu diễn âm nhạc đầy thu hút qua một buổi tối đi cùng gia đình. Buổi biểu diễn âm nhạc ấy khiến em nhớ mãi.

Sau khi đi ăn cùng gia đình. Cả nhà em vào rạp hát xem biểu diễn âm nhạc. Rạp hát thành phố trang hoàng thật lộng lẫy bởi muôn ngàn ngọn đèn đủ màu sắc được kết thành từng chùm đang thi nhau nhấp nháy. Trên sân khấu, tấm màn kéo buông xuống làm bằng vải nhung đỏ được ánh sáng hắt lên khiến nó càng đỏ tươi một cách lạ thường. Đúng 7 giờ 30 phút, buổi biểu diễn bắt đầu. Mở màn là một tiết mục hợp xướng với bài “Thế giới này là của chúng em” do hàng trăm bạn ở nhà văn hóa quận 1 trình bày. Các bạn hát rất hay, lời hát vang lên rộn rã, thôi thúc mọi người hãy chặn đứng chiến tranh trả lại hòa bình cho thế giới tuổi thơ. Bài hát kết thúc trong tiếng vỗ tay vang dội của mọi người.

Tiếp theo là bài hát ca ngợi đất nước với những truyền thống quý báu của dân tộc do hai bạn nữ biểu diễn. Lời hát của hai bạn trong trẻo, cao vút, em còn nhớ như in lời câu hát mở đầu “Bạn ơi hãy đến quê hương chúng tôi, mỉa ngọt chè xanh bông trắng - lưng đồi...” Một lần nữa tiếng vỗ tay lại vang lên như thầm cảm ơn hai bạn đã truyền đến cho khán giả lòng tự hào về Tổ quốc Việt Nam. Chương trình còn có rất nhiều bài hát ca ngợi con người và đất nước do đơn ca, tốp ca trình bày, bài hát nào cũng hay, cũng làm say đắm lòng người.

Kết thúc chương trình là một điệu múa sạp do các bạn nhà văn hóa quận 5 trình bày. Các bạn mặc rất đẹp, trang phục theo kiểu các dân tộc. Khi tiếng nhạc vừa cất lên, từng đôi nhảy ra trông giống như những cô bướm xinh đẹp với những màu sắc rực rỡ đáng yêu đang tung cánh bay lượn. Các bạn gõ sạp cũng nhịp nhàng uyển chuyển không kém. Buổi biểu diễn kết thúc trong tiếng vỗ tay ngợp rạp hát. Dàn biểu diễn đứng trước khán đài cúi đầu chào khán giả, ai nấy đều rất vui vẻ, nụ cười đọng trên môi mãi không dứt. Bởi lẽ buổi biểu diễn ca nhạc này quá tuyệt vời.

Em mong rằng những buổi biểu diễn ca nhạc sẽ có nhiều hơn. Em rất thích biểu diễn ca nhạc.

# hok tốt #

30 tháng 4 2020

Mấy năm nay, thành phố ta xây thêm rất nhiều nhà mới. Ngày ngày trên đường đến trường, em đi qua một công trình xây dựng nhà ở. Tuy đã quen với cảnh công trường nhưng có lúc em vẫn ngỡ ngàng khi thấy những ngôi nhà mới mọc lên nhanh chốngEm nhớ lại những ngày đầu tiên ở công trường,  từng đoàn xe chở máy móc kềnh càng đến trước. Tiếng búa máy đóng cọc móng thình thịch.  Những xe trộn bê tông có cái thùng to tướng vừa đi vừa quay tròn nối đuôi vào công trường. Công nhân đông dần lên. Ban chỉ huy mắc một hệ thống loa phóng thanh đểđiều khiển công việc… Công trường thật bề bộn, tấp nập. Sau sáu tháng, các dãy nhà đã hiện lên sừng sững.

Chính giữa là toà nhà lớn năm tầng hình chữ nhật. Đây là một khu tập thể với những căn hộ khép kín. Các cửa lớn, cửa sổ đã được lắp. Các cô chú công nhân đang tô tường phía bên ngoài. Ròng rọc kéo từng xô vữa từ dưới đất lên cao. Các thợ hồ hối hả nhào nhào, trộn trộn. Ai cũng khẩn trương làm việc, mồ hôi ướt đẫm lưng áo.

Trong khi ngôi nhà lớn đã gần hoàn thành thì phía bên tay phải, một toà nhà nữa cũng đang cao dần. Trên nóc tầng hai nhô lên những cột sắt tua tủa. Bố em bảo xây nhà khung bê tông thế này chắc chắn lắm. Từ xa, em thấy các chú công nhân làm việc trên giàn giáo nhộn nhịp như đàn ong đang cần cù xây tổ. Công trường xây dựng ồn ào náo nhiệt bởi tiếng loa, tiếng máy. Không khí lao động lúc nào cũng khẩn trương.

Em muốn được làm việc như các chú công nhân, góp sức hoàn thành những công trình mới Đềlàm thay đổi bộ mặt thành phố, đem lại niềm vui cho bao chủ nhân tương lai của những ngôi nhà khang trang, đẹp đẽ

30 tháng 4 2020

Đất nước của chúng ta đang trên đà phát triển nhanh chóng. Nhiều công trình chung cư đang dần thay thế cho nhà cấp bốn mái ngói. Hàng ngày được nhìn thấy hình ảnh xây dựng của các chú công nhân. Rồi lại ngỡ ngàng về những công trình mọc lên cao ngút trời được hoàn thành.

Những ngày đầu tiên khi bắt đầu xây dựng là náo nức và ồn ào nhất. Nhiều đoàn xe to chở máy móc cồng kềnh. Tiếng đào móng đóng cọc mọi người hò nhau í ới. Mọi thứ tấp nập ai làm việc nấy. Xe trộn bê tông chở vào ùn ùn.Công nhân mỗi lúc một đông hơn. Quang cảnh công trường mấy ngày đầu bề bộn, ngổn ngang. Tiếng máy móc cùng với tiếng ban chỉ huy phân bố công việc hòa vào nhau làm cho công nhân càng nhanh chân nhanh tay hơn.

Công trường đang xây là xây trường cấp 1 gồm 3 tầng hình chữ nhật. Những ngày đầu mọi người rất vất vả làm từ sáng sớm đến tối mịt. Dưới cái nắng của mùa hè mồ hôi của công nhân rơi xuống lấm tấm. Nhưng mọi người vẫn hồ hởi chăm chỉ làm. Hoàn thành phần móng và tầng 1 tiếp tục đến xây tầng 2 cọc sắt nhô lên tua tủa. Đó nghề xây dựng vất vả thế đó. Con người ta phải tỉ mỉ,tính toán mới xây xong một công trình. Nhiều người ở dưới nhào nhào, trộn trộn xếp gạch để chuyển lên bằng ròng rọc. Tiếng ròng rọc kêu khi kéo xô vữa cùng với tiếng cười đùa như xóa tan đi mệt mỏi. Nhìn từ xa các chú công nhân như những chú ong chăm chỉ đang xây tổ, miệt mài. Sau một thời gian công nhân đã hoàn thành xong bộ khung. Chuyển sang phần lắp cửa sổ và sơn tường.Ôi! sao mà nhanh thế trả mấy chốc mà một công trình sắp hoàn thành. Mọi thứ dần đi vào hoàn thiện. Chỉ cần sơn lên thôi mọi thứ lung linh và khác hẳn. Ôi đẹp biết bao,sau bao nhiêu thời gian công sức mọi thứ đã hoàn thành. Đúng là con người tạo lên được nhiều thứ thật vĩ đại. Hoàn thành xong công trường vẫn còn ngổn ngang sắt,vật liệu còn lại. Chắc phải mất một ngày để dọn dẹp tất cả.Rồi hoàn thành các hệ thống điện nước bên trong. Thế là một ngôi trường mới đã hiện ra khang trang và sạch sẽ. Nhìn sang bên một nhà văn hóa cũng đang bắt đầu xây. Mọi thứ cũng đang tiếp diễn xây lên những công trình xanh-sạch-đẹp thay màu áo mới cho đất nước việt nam ta. Ngôi trường mới hoàn thành xong đó sẽ đầy ắp tiếng cười, tiếng học bài của trẻ thơ. Ôi! Thật hạnh phúc ý nghĩa biết bao những công trình,

Mồ hôi ướt đẫm trên áo của các chú công nhân. Nhưng lòng yêu nghề vẫn thấy họ vui tươi đến lạ. Em ước mình sau này có thể giúp một phần công sức như họ. Để thay đổi bộ mặt của đất nước, quê hương.

# hok tốt #

30 tháng 4 2020

Qua bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh, người đọc đã cảm nhận được một nhân cách cao đẹp trong con người, của Bác. Có lẽ trên thế giới ít có vị lãnh tụ nào phải chịu nhiều cảnh tù đày, khổ đau như Bác. Bài thơ “Đi đường” cùng tập thơ “Nhật kí trong tù” chẳng phải đã ra đời trong những năm tháng tù đày đầy oan khuất của Bác đó sao?Cùng với tù đày là những nỗi đớn đau tột cùng về thể xác bởi đường đi có quá nhiều gian khó:

“Đi đường mới biết gian lao

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”

Đường đi chuyển lao gian khó cũng có nghĩa là con đường hoạt động cách mạng nhiều gian khó: hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” gợi đến những cảnh tù đày, bắt bớ, những giam cầm,... Nhưng vượt lên tất cả, tâm hồn Bác toả sáng bởi tấm lòng rộng mở đối với thiên nhiên, và đặc biệt là bởi sự lạc quan với tầm nhìn lãnh tụ. Chỉ điều đó mới giúp Bác vượt qua tất cả những đau đớn về thể xác để có thể hạ xuống câu thơ:

“Núi cao lên đến tận cùng

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

30 tháng 4 2020

Mở đầu bài thơ là một phán đoán: Đi đường mới biết gian lao.

Một phán đoán luận lý có nội dung và hình thức rất gần với phán đoánhiện thực (chỉ thêm một chữ "mới").Đó là một nhận thức, một nhận thức có tính khái quát rút ra từ thực tiễn, rất phù hợp với quy luật của nhận thức: "Thực tiễn - nhận thức - thực tiễn" . Câu thơ tiếp là hình ảnh miêu tả cụ thể khách quan về đường đi gian khó, cũng là sở cứ của câu thứ nhất: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng. Con đường ấy là con đường chuyển lao nhưng cũng là con đường cách mạng, con đường sự nghiệp, con đường đời.

Một con người đã trải qua con đường cách mạng dài lâu như Bác vẫn nghiệm lại nhận thức của mình. Một ý thức chủ động lao vào thực tế...Nhận  thức và thực tiễn và nhận thức đã chuyển thành ý chí và hành động.

Chúc bạn học tốt.

30 tháng 4 2020

- Câu thơ thứ nhất: sử dụng điệp ngữ “ nhẹ”: Nhấn mạnh , thể hiện sự xúc động, tình cảm tha thiết của nhà thơ và dòng người vào lăng viếng Bác.

- Câu thơ thứ 2: Sử dụng nghệ thuật nhân hoá: trăng được gọi như người ( trăng ơi trăng); điệp ngữ trăng được nhắc lại 2 lần như muốn nhấn mạnh lời nhắn nhủ :, hãy yên lặng cúi đầu để bày tỏ lòng thành kính, lòng biết ơn vô hạn đối với Bác - Trăng là người bạn thuỷ chung suốt chặng đường dài bất tử của Người.

-Câu thơ thứ 3: nghệ thuật ẩn dụ “ngủ” ( có ngủ yên đâu) ca ngợi sự hi sinh quên mình của Bác, suốt cuộc đời Người chỉ lo cho dân tộc cho vận mệnh của dân tộc,của đất nước.

- Câu thơ thứ 4: Nghệ thuật nói giảm, nói tránh “ngủ” ( nay Bác ngủ) làm giảm đi sự đau thương khi nói về việc Bác mất. Trong lòng mỗi người dân Việt Nam Bác còn sống mãi.

=> Ngôn ngữ thơ giản dị, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc đã diễn tả tình cảm, tấm lòng của nhà thơ và của nhân dân đối với Bác

Chúc bạn học tốt!

30 tháng 4 2020

CHÚC BẠN HỌC TỐT

mk ko biết trả lời