K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 12 2021

Em tham khảo dàn ý nhé:

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Phạm Ngũ Lão và bài thơ Tỏ Lòng

- Khái quát: Hình ảnh những người chiến sĩ và tâm trạng của tác giả được thể hiện đặc sắc

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh sáng tác

 Bài thơ ra đời trong không khí quân và dân nhà Trần đang hừng hực, sục sôi khí thế chiến đấu và chiến thắng quân Mông – Nguyên xâm lược lần thứ hai. 

2. Vẻ đẹp hào hùng của con người thời Trần

* Vẻ đẹp của người chiến sĩ (câu thơ đàu tiên)

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

- Tư thế: “hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo

-> Tư thế ấy như dồn nén sức mạnh để để bùng nổ.

+ Bản dịch thơ là “múa giáo”: cách dịch mang tính hình ảnh, hoa mĩ, có gì đó pha chút phô trương, biểu diễn hoặc nếu không dễ làm ta liên tưởng đến một trình độ thuần thục của nghề cung kiếm trong thao tác thực hành -> Không toát lên dược khí thế của người trngs sĩ.

- Tầm vóc

+ Không gian: “Giang sơn” – đất nước.

-> Không gian vũ trụ rộng lớn, kì vĩ

-> Con người sánh ngang với trời đất, có trách nhiệm to lớn đối với thế giới.

+ Thời gian: “kháp kỉ thu”: thời gian dài

→ Tầm vóc lớn lao, lấn át cả thời gian của người anh hùng.

=> Tư thế của nhân vật hiện lên thật hiên ngang lẫm liệt

b. Vẻ đẹp sức mạnh của quân đội nhà Trần. (câu thơ thứ hai)

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

- Thủ pháp so sánh và phóng đại 

+ "Tam quân": ba thứ quân -> tiền lực quân đội mạnh mẽ, vững vàng

- Khí thế đội quân: Hình ảnh so sánh tăng tiến với hai hình ảnh

+ “Tam quân” được so sánh với “tì hổ”:  Hổ báo là loài mãnh thú, chúa rừng là nỗi khiếp đảm của loài vật khác thì tiềm lực sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần là nỗi khiếp đảm của quân thù

+ hình ảnh “khí thôn ngưu” có hai cách hiểu, cả hai cách đều đúng:

(1) Khí thế ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu

(2) Khí thế hào hùng ngút trời làm mờ sao Ngưu

→ Khí thế dũng mãnh, có thể sánh ngang với tất cả

3. Vẻ đẹp chí làm trai qua tâm tình tác giả

a. Món nợ công danh (câu thứ ba)

Nam nhi vị liễu công danh trái

- Theo quan niệm Nho giáo phong kiến, làm trai trên đời phải có công danh sự nghiệp, cũng là để chứng tỏ cái chí của người quân tử, muốn được góp sức với đời góp công với nước. Có như vậy mới thỏa nguyện chí làm trai và làm vẻ vang cho cha mẹ, gia tộc. 

- Phạm Ngũ Lão đã gắn chí nam nhi với lý tưởng yêu nước thiêng liêng, với sự nghiệp cứu nước gian khổ mà cực kì vẻ vang.

b. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão. (câu cuối)

- “Thẹn” là trạng thái xấu hổ

- “Thuyết Vũ Hầu”: Điển tích Trung Quốc nói về một con người tài năng lf Gia Cát Lượng đã giúp Lưu Bị chiến thắng Tào Tháo

- Phạm Ngũ Lão cũng là một trang nam nhi hết lòng vì nước, cả công lao và danh tiếng đều vang xa. Vậy mà ông vẫn thẹn vì chưa báo đáp được hết ơn chiêu mộ của Trần Quốc Tuấn, chưa tận tâm tận lực trả hết món nợ công danh.

→  Nỗi thẹn ấy không làm cho con người nhỏ bé đi mà nó tôn cao nhân cách con người. Nỗi thẹn ấy đốt lên trong lòng người ngọn lửa của khát vọng vươn tới cái cao cả lớn lao. Nói thẹn là là cách nói khiêm nhường, một cách thể hiện khát vọng, hoài bão mãnh liệt trong lòng.

→ Thể hiện ý thức muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho dân tộc. Đồng thời đánh thức ý thức làm người và chí làm trai cho nam nhi đời Trần.

⇒ Trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của người anh hùng Phạm Ngũ Lão

4. Nghệ thuật

- Bài thơ Đường luật với thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn

- Ngôn ngữ hàm súc, đạt đến độ súc tích cao

III. Kết bài

- Khái quát vấn đề

8 tháng 12 2021

Tham Khảo:
 

Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là "Hào khí Đông A". Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Toản, "Thuật hoài" (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: "Thuật hoài" và "Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương".

Bài thơ "Tỏ lòng" thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ "Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu" là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở "bình Nguyên" ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân "Sát Thát" ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo "tỳ hổ" quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. "Khí thôn Ngưu" nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu". Hình ảnh ẩn dụ so sánh: "Tam quân tì hổ…" trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân "sát thát" đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

"Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…"

(Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ "bình Nguyên" mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Trần Quốc Toản) – "Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (Trần Thủ Độ). "…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng" (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

"Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu".

"Công danh" mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ "công danh" tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ "Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu", mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu "Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…" để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: "Non sông nghìn thuở vững âu vàng" (Trần Nhân Tông).

"Thuật hoài" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời "hào khí Đông A".



 

7 tháng 12 2021

BPTT So sánh em nhé!

7 tháng 12 2021

Em tham khảo:

Nguồn: Hoidap247

- Cuộc chia tay diễn ra trong thời gian: Tháng ba – mùa hoa khói: Cuối mùa xuân

- Cụm từ " yên hoa tam nguyệt" gợi cảm nhận về cảnh thiên nhiên đó là : cảnh đẹp diễm lệ của mùa xuân tháng ba. Cảnh thiên nhiên đẹp khiến người ta lưu luyến không quên được.

Giúp mình với ạ chiều nay mình phải nộp rồiĐọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:"Người chìa xin con một đồng. Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng. Lần thứ hai hãy biếu họ một đồng. Lần thứ ba con phải biết lắc đầu. Và đến lần thứ tư con hãy im lặng, bước đi. ….. Đừng vui quá. Sẽ đến lúc buồnĐừng quá buồn. Sẽ có lúc vuiTiến bước mà đánh mất mình. Con ơi, dừng lạiLùi...
Đọc tiếp

Giúp mình với ạ chiều nay mình phải nộp rồi
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

"Người chìa xin con một đồng. Lần thứ nhất con hãy tặng người ấy hai đồng. 

Lần thứ hai hãy biếu họ một đồng. Lần thứ ba con phải biết lắc đầu. 

Và đến lần thứ tư con hãy im lặng, bước đi.

 ….. 

Đừng vui quá. Sẽ đến lúc buồn

Đừng quá buồn. Sẽ có lúc vui

Tiến bước mà đánh mất mình. Con ơi, dừng lại

Lùi bước để hiểu mình. Con cứ lùi thêm nhiều bước nữa

Chẳng sao

Hãy ngước nhìn lên cao . Để thấy mình còn thấp

Nhìn xuống thấp. Để biết mình chưa cao

Con hãy nghĩ về tương lai. Nhưng đừng quên quá khứ

Hy vọng vào ngày mai. Nhưng đừng buông xuôi hôm nay

May rủi là chuyện cuộc đời. Nhưng cuộc đời nào chỉ chuyện rủi may

Hãy nói thật ít. Để làm được nhiều – những điều có nghĩa của trái tim.

Nếu cần, con hãy đi thật xa. Để mang về những hạt giống mới.

Rồi dâng tặng cho đời. Dù chẳng được trả công.

  …..

Hãy hân hoan với điều nhân nghĩa

Đừng lạnh lùng trước chuyện bất nhân

Và hãy tin vào điều có thật:

Con người – sống để yêu thương".

                                              (Trích "Gửi con" - Bùi Nguyễn Trường Kiên)

Câu 1:Nêu nội dung chính của văn bản.

Câu 2: Chỉ ra biện pháp tu từ chính và nêu hiệu quả diễn đạt của những câu sau:

"Tiến bước mà đánh mất mình. Con ơi, dừng lại

Lùi bước để hiểu mình. Con cứ lùi thêm nhiều bước nữa

Chẳng sao

Hãy ngước nhìn lên cao. Để thấy mình còn thấp

 Nhìn xuống thấp. Để biết mình chưa cao".

Câu 3: Anh/Chị có đồng tình với quan điểm của người viết khi cho rằng:

"Con người – sống để yêu thương".  Vì sao?  Viết  đoạn văn

0
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:         Người xưa có câu: “Hành thiện tối nhạc” (làm việc thiện là vui sướng nhất). Lòng người quả thật  vô cùng kỳ lạ. Khi ta làm một việc gì đó không tốt, trong lòng sẽ cảm thấy bất an, tâm trạng không thoải mái. Còn khi ta làm một việc gì đó giúp cho người khác thì trong lòng lại thấy một niềm hạnh phúc.        Một số người cho rằng, phải có...
Đọc tiếp

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

         Người xưa có câu: “Hành thiện tối nhạc” (làm việc thiện là vui sướng nhất). Lòng người quả thật  vô cùng kỳ lạ. Khi ta làm một việc gì đó không tốt, trong lòng sẽ cảm thấy bất an, tâm trạng không thoải mái. Còn khi ta làm một việc gì đó giúp cho người khác thì trong lòng lại thấy một niềm hạnh phúc.

        Một số người cho rằng, phải có điều kiện, có tiền bạc mới có thể cho đi, mới có điều kiện để giúp đỡ người khác. Nhưng thực tế, ngay cả khi ta không có điều kiện vật chất thì ta vẫn có thể cho đi bằng những hành động ý nghĩa. Đôi khi đó là một lời động viên hoặc trao cho nhau một nụ cười khích lệ cũng đủ giúp cho người khác vui vẻ.

      Chính vì thế, tại sao chúng ta không cho đi để cuộc sống trở nên hạnh phúc hơn? [...]

                                     

1. Nêu phương thức biểu đạt chính của văn bản trên. (2đ)

2. Hãy xác định nội dung chính của văn bản trên. (2đ)

3. Theo người viết, tại sao người xưa có câu: “Hành thiện tối nhạc” (làm việc thiện là sung sướng nhất)? (2đ)

4. Chỉ ra và nêu tác dụng của 1 biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản trên. (2đ)

1
7 tháng 12 2021

hãy làm theo khả năng của mk