K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

29 tháng 12 2024

bài thơ "Thương Vợ" của Trần Tế Xương đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc hình ảnh người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó vì gia đình. Bà Tú, nhân vật chính trong bài thơ, hiện lên với những công việc vất vả, nhọc nhằn, luôn nỗ lực chăm lo cho chồng con. Những câu thơ như: "Quanh năm buôn bán ở mom sông, Nuôi đủ năm con với một chồng."

đã lột tả sự hy sinh, tần tảo của bà. Trần Tế Xương không chỉ ca ngợi sự hy sinh của vợ mình mà còn tỏ lòng biết ơn sâu sắc, thể hiện qua sự tự trách móc bản thân và cảm thông với nỗi vất vả của bà. Hình ảnh bà Tú hiện lên là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam với đức tính chịu thương, chịu khó, hy sinh vì gia đình.

Ngược lại, trong bài thơ "Bánh Trôi Nước", Hồ Xuân Hương lại mang đến một góc nhìn khác về người phụ nữ. Tác giả sử dụng hình ảnh bánh trôi nước để tượng trưng cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến: "Thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non."

Những câu thơ này không chỉ miêu tả vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ mà còn ám chỉ số phận bấp bênh, lận đận của họ. Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với người phụ nữ, đồng thời phê phán xã hội phong kiến đã khiến cuộc đời họ trở nên khó khăn, bất hạnh. Tuy nhiên, bài thơ cũng khẳng định phẩm chất kiên cường, bất khuất của người phụ nữ, như trong câu: "Mà em vẫn giữ tấm lòng son."

Qua hai bài thơ, chúng ta thấy rằng cả Trần Tế Xương và Hồ Xuân Hương đều đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ một cách sâu sắc và đầy xúc động. Trong khi Trần Tế Xương ca ngợi sự hy sinh và tần tảo của người vợ, thì Hồ Xuân Hương lại tập trung vào vẻ đẹp và sự kiên cường của người phụ nữ. Cả hai tác phẩm đều phản ánh những giá trị truyền thống và những khó khăn mà người phụ nữ phải đối mặt trong xã hội cũ.

29 tháng 12 2024

Đề tài viết về người phụ nữ luôn là mảnh đất màu mỡ cho cho chủ nghĩa nhân đạo trong thơ ca trung đại phát triển. Nếu thơ Hồ Xuân Hương là “Tiếng nói tâm tình của người phụ nữ” thì sau bà có Tú Xương_nhà thơ trào phúng luôn dành tình cảm sâu đậm cho người vợ của mình. Tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ trong thơ của hai thi sĩ là bài “Bánh trôi nước” và “Thương vợ”, qua đó người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người mang trong mình vẻ đẹp về nhan sắc, phẩm hạnh nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, đáng thương.

       Mỗi một nhà thơ có một cách thể hiện tình cảm của mình đối với người phụ nữ nhưng nhìn chung trong hai bài thơ “Bánh trôi nước” và “Thương vợ” hình ảnh người họ hiện lên có những nét tương đồng là thân phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

       Trước tiên họ là những con người có nhan sắc-vẻ đẹp bên ngoài. Điều đó được thể hiện rõ nét trong bài “Bánh trôi nước”. Chiếc bánh trôi nước được làm từ bột gạo nếp tinh khiết, trắng trẻo, mịn màng và tròn trịa rất dễ dàng cho người ta liên tưởng đến dung nhan xinh đẹp, hồn nhiên, đầy đặn của người con gái đang độ xuân thì. Vẻ đẹp ấy được bà so sánh trong câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”. Điều đó khiến cho ta nhớ tới vẻ đẹp của người phụ nữ trong ca dao dân gian. Họ mang nét đẹp của “Tấm lụa đào”, “Cây quế giữa rừng”... tỏa hương thơm ngát với đời. Trong thơ Hồ Xuân Hương bà miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ rất tài tình tiêu biểu là bài “Thiếu nữ ngủ ngày” ca ngợi vẻ đẹp trên cơ thể của cô gái trẻ tuổi với các chi tiết gợi hình gợi cảm:

    “Lược trúc chải dài trên mái tóc,

    Yếm đào trễ xuống dưới nương long

    Ðôi gò bồng đảo sương còn ngậm

    Một lạch đào nguyên suối chửa thông”

       Cách miêu tả chân thực không một chút bỡn cợt trái lại còn rất nâng niu, trân trọng khác xa với lối viết ước lệ tượng trưng mà không chú ý đến nhan sắc người phụ nữ của các tác gia trước bà. Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ Việt.

       Trong bài “Thương vợ” nhan sắc của bà Tú tuy không được Tú Xương nhắc đến nhưng mở rộng vốn văn học ta cũng phải ngẫm bà Tú ngoài phẩm hạnh tốt đẹp bên trong thì vẻ đẹp nhan sắc của bà cũng không kém ai nên mới có thể lấy được ông Tú-người học rộng và am hiểu bởi tiêu chuẩn chọn vợ trong xã hội thời xưa là con người hội tụ vẻ đẹp của “Công dung ngôn hạnh”.

       Không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc qua hai bài thơ người phụ nữ còn có mang trong mình nét đẹp về phẩm hạnh đáng quý luôn son sắt, chung thủy và chịu thương chịu khó, biết hi sinh vì chồng con. Trong bài “Bánh trôi nước” Hồ Xuân Hương ngợi ca “tấm lòng son”-giá trị nhân phẩm của người phụ nữ luôn vẹn nguyên trước mọi hoàn cảnh. Thơ của Hồ Xuân Hương là tiếng nói táo bạo dám tự tin khẳng định giá trị của bản thân nói riêng và nhân phẩm người phụ nữ nói chung. Còn bà Tú được Tú Xương ca ngợi bởi tấm lòng nhân hậu của bà luôn cố gắng và hết lòng hi sinh cho gia đình. Bà Tú phải vất vả ngược xuôi “Quanh năm buôn bán ở mom sông” để “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng cơm áo gạo tiền đổ lên đôi vai người phụ nữ, “một chồng” được đặt ngang hàng với “năm con” để cho thấy số tiền phải chi tiêu cho ông Tú bằng miệng ăn, áo mặc của năm đứa con cộng lại. Nuôi một ông chồng tài hoa như ông Tú không chỉ là lo miếng cơm manh áo mà còn phải chuẩn bị sẵn cho ông ít rượu ít trà, ít tiền bỏ túi khi đi thi... Vậy mà bà Tú đã toan lo tất cả nhưng nào dám quản công, kể lể bà cho đó là duyên nợ “Một duyên hai nợ âu đành phận/ Năm nắng mười mưa dám quản công” là vậy. Bà sẵn sàng chấp nhận điều đó. Suy nghĩ và tâm trạng của bà Tú cũng là tâm trạng chung, suy nghĩ chung của người phụ nữ xưa. Trong xã hội hiện đại ngày nay với cuộc sống văn minh, phát triển nhưng liệu còn có bao nhiêu người phụ nữ có thể làm được điều đó cho gia đình?

       Tuy hội tụ cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong nhưng hình ảnh người phụ nữ thời xưa hiện lên là những con người với số phận bé nhỏ, bất hạnh. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng cất lên tiếng khóc thương cảm, xót xa cho thân phận của họ. Không phải vô duyên vô cớ mà ông cất lên tiếng nấc thay lòng cho người phụ nữ trong “Văn chiêu hồn” với câu thơ:

    “Đau đớn thay phận đàn bà

    Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”

Hay trong kiệt tác “Truyện Kiều” là lời than vãn:

    Đau đớn thay phận đàn bà

    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

       Trong xã hội phong kiến với những quan niệm, tư tưởng khắt khe về người phụ nữ như “Tam tòng tứ đức”, “Nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” rồi “Nữ nhân ngoại tộc” vô tình đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc con người vào lề thói cổ hủ lạc hậu khiến cho họ không có tiếng nói, không có quyền quyết định cho số phận cuộc đời mình. Trong bài “Bánh trôi nước” người phụ nữ là những chiếc bánh trôi để “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” để cho số phận long đong lận đận “Bảy nổi ba chìm với nước non”. Chi tiết ấy khiến cho ta nhớ tới hình ảnh chiếc bách nổi lênh đênh tượng trưng cho số kiếp nổi nênh của người phụ nữ:

    “Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

    Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

       Quan niệm phong kiến đã tước đoạt đi quyền làm người và đáng sợ hơn là nó biến người phụ nữ thành cái bóng mờ nhạt trong cuộc đời, sự sống là sự tồn tại vô nghĩa chứ không được trọn vẹn đúng nghĩa với từ “Sống”.

       Trong bài “Thương vợ” đó là hình ảnh người phụ nữ của gia đình-bà Tú người đã khổ về gánh nặng vật chất miếng cơm manh áo cho bảy miệng ăn lại còn khổ về mặt tinh thần. Bà hết lòng vì chồng vì con nhưng chồng nào có thấu hiểu hay không? Ông Tú tự nhận mình là một người chồng vừa bất tài vô dụng không giúp được gì lại còn “hờ hững” thờ ơ trước nỗi khổ của vợ. Nỗi khổ ấy là “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, là “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông Tú đã nhập vai, hóa thân vào bà Tú để cảm thông, thấu hiểu và cất lên lời than vãn, tiếng chửi của bà một mặt thể hiện tình cảm của ông dành cho vợ, một mặt tự trào phúng bản thân mình.

       Hai bài thơ cùng một đề tài cùng làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ thời xưa với vẻ đẹp dung nhan bên ngoài và tâm hồn nhân cách bên trong nhưng toát lên là thân phận bé nhỏ, phụ thuộc rất đáng thương. Họ cũng là tấm gương tiêu biểu cho vẻ đẹp phẩm chất người phụ nữ Việt. “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã góp vào tiếng nói chung bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ-những con người gánh vác trọng trách duy trì sự sống, sự sinh tồn trên trái đất.

đúng thì tick cho mình

29 tháng 12 2024
 đóng vai trò tạo nhịp điệu, gắn kết các câu thơ và làm cho bài thơ dễ nhớ, dễ thuộc
29 tháng 12 2024

Cuộc sống luôn đầy những khoảnh khắc đáng nhớ và có những sự việc đã để lại trong em ấn tượng sâu sắc. Một trong những sự việc đó là lần em cùng cả lớp tham gia hoạt động tình nguyện tại một mái ấm dành cho trẻ em mồ côi.

Buổi sáng hôm đó, cả lớp em đã tập trung tại trường từ rất sớm để chuẩn bị những phần quà nhỏ, bao gồm bánh kẹo, sách vở và đồ chơi. Trên đường đi, em cảm thấy hồi hộp và háo hức, không biết mình sẽ gặp gỡ những bạn nhỏ như thế nào.

Khi đến mái ấm, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt em là những nụ cười tươi tắn của các em nhỏ. Dù hoàn cảnh khó khăn, các em vẫn tỏ ra rất hồn nhiên và vui vẻ. Được gặp gỡ và trò chuyện với các em, em cảm nhận được sự ấm áp và thân thiện. Các em đã chia sẻ về cuộc sống hàng ngày, những ước mơ giản dị mà em cũng từng trải qua: được học tập, vui chơi và có một gia đình yêu thương.

Một khoảnh khắc đặc biệt đã in sâu trong tâm trí em là khi em trao tặng một cuốn truyện tranh cho một em nhỏ tên là Minh. Ánh mắt sáng lên của Minh khi nhận quà khiến em không khỏi xúc động. Minh kể rằng, từ lâu em đã ao ước có được một cuốn truyện tranh để đọc mỗi khi buồn. Điều đó khiến em nhận ra rằng, đôi khi những điều nhỏ bé, giản dị cũng có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc lớn lao cho người khác.

Kết thúc buổi tình nguyện, em và các bạn trở về với lòng đầy ắp những cảm xúc. Chuyến đi đã giúp em hiểu hơn về giá trị của tình yêu thương và sự chia sẻ. Em nhận ra rằng, dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, chỉ cần chúng ta biết quan tâm và giúp đỡ nhau, mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp hơn.

Trải nghiệm này đã dạy em nhiều bài học quý giá và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng. Em hiểu rằng, mỗi hành động nhỏ bé của chúng ta, nếu xuất phát từ trái tim, đều có thể tạo nên những điều kỳ diệu và lan tỏa niềm vui, hạnh phúc đến với mọi người.

29 tháng 12 2024

Lá lành đùm lá rách.

Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.

Có công mài sắt có ngày nên kim.

Thương người như thể thương thân.

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

nhớ kết bn với mik nha.☺

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm). Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới.                                                           CHA TÔI                                            Cả đời lo lắng cho con Tuổi già sức yếu lưng khòm chân đau                                           Ngày xưa mưa nắng dãi...
Đọc tiếp

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm). Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi bên dưới.

                                                          CHA TÔI

                                           Cả đời lo lắng cho con

Tuổi già sức yếu lưng khòm chân đau

                                          Ngày xưa mưa nắng dãi dầu

                                   Gian nan cơ cực cha đâu nản lòng

                                         Củ khoai củ sắn trên đồng

                                  Chắt chiu nhặt nhạnh gánh gồng nuôi con

                                         Cha mong bữa đói không còn

                                  Để con no bụng ngủ ngon giấc nồng

                                        Một đời áo vải nhà nông

                                  Phủ đầy sương gió ướt ròng mồ hôi

                                      Sớm khuya đồng ruộng giữa trời

                                  Tay cha cày cuốc cho đời con xanh.

                                                       ( Đặng Mai Minh)

Câu 1. Bài thơ trên được sáng tác theo thể thơ gì? Cho biết phương thức biểu đạt chính của bài thơ. 

Câu 2. Xét về cấu tạo, từ “dãi dầu” thuộc loại từ nào? Từ này góp phần thể hiện điều gì ở người cha?

Câu 3. Chỉ ra nhân vật trữ tình và đối tượng trữ tình của bài thơ, từ đó cho biết chủ đề của tác phẩm.

Câu 4. Chỉ rõ cách gieo vần trong hai câu thơ in đậm (hai câu cuối )?

Câu 5. Gọi tên, chỉ rõ và nêu tác dụng một biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ “Tay cha cày cuốc cho đời con xanh”.

Câu 6. "Gian nan cơ cực cha đâu nản lòng" thể hiện điều gì về tính cách của người cha trong bài thơ?

Câu 7. (1,5 điểm). Qua bài thơ trên và thực tế cuộc sống, em rút ra bài học gì cho bản thân trong cách ứng xử với những người sinh thành và nuôi em khôn lớn? (Trả lời câu hỏi này bằng khoảng 5 câu văn liên tiếp). 

II. VIẾT (4,0 điểm)

       Hãy viết một đoạn văn khoảng 12 câu nêu cảm nghĩ của em về bài thơ “Cha tôi” của Đặng Mai Minh trong phần đọc hiểu.

0
29 tháng 12 2024

Những ngày vừa qua, bầu không khí trên khắp thôn xóm cuối cùng của làng đã trở nên rực rỡ, đầy phấn khích một cách thú vị và khác thường. Đây chính là dấu hiệu rõ ràng của mùa vụ, khi những cánh đồng xanh mướt đã chuyển sang tông màu chín rộ, tạo nên một khung cảnh rạng ngời. Sự phấn khích này lan tỏa đến tất cả mọi người trong làng, ai cũng đều nô nức và hạnh phúc.

Chỉ còn cách đây không lâu, những người nông dân trong làng còn đang bận rộn với công việc cấy cấy từng hạt mạ non vào ruộng lầy l muddy. Nhưng bây giờ, những hạt mạ đó đã trở thành những cây lúa cao lớn, đứng san sát nhau, đốm chín vàng từ đỉnh đến gốc. Toàn bộ cảnh quan đồng lúa biến thành một tấm thảm vàng tươi sáng, tạo nên cảm giác mắt mở cửa ra mà hóa ra đã đặt chân vào một khu vườn của thiên đàng. Ánh sáng mặt trời khiến cho cảnh tượng này càng trở nên rực rỡ, lấp lánh và tỏa sáng, khiến tâm hồn hạnh phúc của những người nông dân càng trở nên hân hoan.

Mỗi thân lúa đổ xuống đất, cong gùi bởi những hạt vàng quý báu. Những hạt ngọc này mang trong mình sự hòa quyện tinh tế giữa đất và trời, trải qua quá trình sinh trưởng để cuối cùng trở thành những hạt lúa đầy đặn, đẹp mắt. Khi gió thổi qua, những thân lúa này chạm vào nhau với âm thanh rì rào, như âm điệu của một bản nhạc tỏa sáng và phấn khích, tạo nên bản giao hưởng đầy sức sống cho mùa lúa mới nở. Bản giao hưởng này cũng mang theo mùi thơm đặc trưng của lúa chín, kêu gọi đàn chim sẻ và những bầy cò bay đến, cùng chia vui và sung sướng.

Trong cảnh đó, cánh đồng hiện lên như một sân khấu rộn ràng, nơi mọi người đổ về để tham quan, chọn ngày gặt, và chuẩn bị mọi dụng cụ, từ máy móc đến xe bò, để huy động nhau trong quá trình gặt hái. Niềm vui trong trái tim họ không thể tả thành lời, nơi tất cả mọi người cùng hòa mình vào mùa vụ đang bùng nổ.

em lớp 5☺

29 tháng 12 2024

tuổi thơ nhé

 

29 tháng 12 2024

tuổi thơ☺

 

29 tháng 12 2024

Tháp Nhạn là ngọn tháp nổi tiếng ở Phú Yên gắn với nhiều điều bí ẩn chưa được giải đáp. Tháp nằm gần trên đỉnh ngọn núi Nhạn ở bờ bắc sông Đà Rằng.

Nói về nguồn gốc của ngọn tháp này có rất nhiều tương truyền. Có người cho rằng, xưa kia có nàng tiên nữ Thiên Y A Na giáng trần chỉ dạy cho người dân sống ở vùng đất này tất cả mọi thứ từ cấy cày, dệt vải, kéo sợi…để tìm cách mưu sinh. Sau khi tiên nữ quay trở lại cõi tiên, người dân Chăm-pa vì thương nhớ và muốn khắc ghi công ơn người khai sáng cho dân tộc mình bèn xây ngọn tháp ấy để phụng thờ.

Theo một truyền thuyết khác thì xưa kia, Tuy Hòa là vùng đầm lầy trũng thấp có nhiều thủy quái chuyên quấy phá đời sống người dân. Thấy vậy Ông Trời bèn sai người khổng lồ xuống gánh đất lấp vùng trũng, bảo vệ cuộc sống cho người dân. Tuy nhiên khi lấp đã gần xong, người khổng lồ vội về nên đã gánh nhiều đá hơn làm chiếc đòn gánh bị gãy. Đá từ hai gánh rơi xuống một bên tạo thành núi Chóp Chài, một gánh tọa trên núi Nhạn.

Đó được cho là nguồn gốc xuất hiện của ngọn tháp. Còn về tên gọi “tháp Nhạn” thì được người dân ở đây giải thích là do có rất nhiều chim nhạn bay tới đây sinh sống, làm tổ nên ngọn tháp cũng được đặt theo tên của loài chim này.

Tháp Nhạn cao khoảng 25m với đế tháp hình vuông, thân tháp được xây to ở phần chân và thu nhỏ dần về phía đỉnh. Trên đỉnh tháp là tượng Linga bằng đá – biểu tượng tâm linh của người dân Chăm-pa. Trong mỗi công trình đền tháp của người Chăm đều có Linga và Yoni tượng trưng cho tín ngưỡng phồn thực cầu mong vạn vật được nảy nở sinh sôi.

Khách du lịch tìm tới tháp Nhạn không chỉ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngọn tháp huyền bí này mà còn bởi tò mò về vật liệu mà người Chăm xưa dùng để xây tháp. Tháp Nhạn được xây dựng hoàn toàn bằng gạch nung xếp khin khít nhau mà rất vững chắc. Theo nghiên cứu, loại gạch này có khối lượng nhẹ hơn một viên gạch thông thường khoảng 1,3 lần. Kể cả độ bền chịu nén, chịu va đập cũng hơn gạch thường rất nhiều.

Tìm hiểu về loại keo dùng để gắn kết các viên gạch này với nhau một cách chắc chắn và không lộ ra chút đường hồ nào thì được biết, người Chăm cũng sử dụng hoàn toàn từ nguyên liệu thiên nhiên. Khi xưa chưa có xi măng, người dân Chăm-pa đã biết sử dụng chất kết dính từ cây dầu rái vào việc xây dựng. Tuy nhiên, việc pha trộn các loại chất liệu thế nào để có được loại keo bền chắc có thể “nâng đỡ” cả một tòa tháp lớn như vậy thì các nhà nghiên cứu vẫn phải bó tay.

Được biết thêm, để các viên gạch dính lại với nhau chắc chắn như vậy không chỉ do có hỗn hợp keo kể trên mà còn nhờ vào bàn tay khéo léo của những người xây dựng. Các viên gạch được sử dụng kĩ thuật mài chập, nghĩa là sau khi phết keo lên, họ mài các viên gạch với nhau cho đến khi bề mặt tiếp túc hoàn toàn khít không lộ ra một chút kẽ hở nào.

Đi sâu vào phía bên trong tháp, du khách có thể bất ngờ khi thấy bên trong không có tượng hay ban thờ nào, chỉ có duy nhất một cái am nhỏ để nhang khói cho Thượng Đỉnh Chúa Thiết A Na Diễn Ngọc Phi được xây dựng từ thời Hậu Lê. Xung quanh tường có những hoa văn hình rồng được chạm khắc tinh tế trên đá hoa cương đặt ở 4 góc tháp. Đừng từ bên trong nhìn lên đỉnh tháp chỉ thấy một không gian sâu thẳm cao vút đầy huyền bí.

Cùng với sông Đà Rằng, nơi đây đã trở thành cụm danh lam thắng cảnh thu hút đông đảo khách du lịch. Hằng năm cứ tới mỗi dịp lễ tết có rất nhiều hoạt động vui chơi văn nghệ được tổ chức ở trên núi tháp Nhạn. Bởi vậy, lời khuyên cho các bạn có ý định tới thăm quan khu di tích này thì hãy đến vào dịp rằm tháng Giêng Âm Lịch. Khi ấy, ở đây diễn ra đêm thơ Nguyên tiêu thu hút đông đảo văn nghệ sĩ nức tiếng gần xa tới giao lưu nghệ thuật.

em lớp 5. nhớ tick cho em nha☺

29 tháng 12 2024

Trò chơi lò cò, đơn giản mà đầy thử thách.  Mỗi bước nhảy nhỏ nhẹ, khéo léo trên những ô đất hay vạch kẻ là cả sự tập trung và cân bằng.  Cảm giác hồi hộp khi sắp đặt chân lên ô cuối cùng, rồi sung sướng khi hoàn thành cả chuỗi động tác.  Lò cò không chỉ là trò chơi vận động, mà còn rèn luyện sự kiên trì và khéo léo.  Những tiếng cười giòn tan, những lời cổ vũ náo nhiệt làm cho trò chơi thêm phần sôi nổi.  Dù đơn giản, lò cò vẫn là ký ức tuổi thơ đẹp đẽ, in sâu trong tâm trí mỗi người.