K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 11 2021

Tham khảo!

 

Con đường đi đến thành công không bao giờ trải đầy hoa hồng mà luôn tiềm ẩn muôn vàn khó khăn thử thách. Trong đó, những cám dỗ và nỗi sợ hãi từ bản thân chính là thử thách lớn nhất. Vì vậy, chiến thắng bản là chiến thắng hiển hách nhất.

"Chiến thắng" là từ ngữ chỉ kết quả tốt mà chúng ta đạt được sau một quá trình đấu tranh và vượt qua thử thách. "Bản thân" là tất cả mọi thứ thuộc về cá nhân mỗi người, bao gồm cả hình thức và nội tâm. Ở đây nó hướng tới những mặt tối tăm, tiêu cực trong mỗi con người. Chiến thắng bản thân chính là tự đấu tranh, vượt qua được những mặt xấu xa của chính mình, vượt qua sự mặc cảm, sự tự ti, vượt qua nỗi sợ hãi và sự cám dỗ từ bên ngoài hay sự ích kỷ, xấu xa tiềm ẩn trong chính bạn. Câu nói “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất” nhấn mạnh việc mỗi cá nhân dám mạnh mẽ thoát khỏi lớp vỏ yếu kém của bản thân, dũng cảm đối mặt với mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.

Từ khi sự sống bắt đầu hình thành, con người vốn chỉ là một cá thể vô cùng nhỏ bé. Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải đấu tranh. Những ngày sơ khai, họ đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt và dã thú. Sau này phải đấu tranh với các tộc người khác và các thế lực khác để bảo vệ quê hương, gia đình. Nếu chán nản, buông xuôi hay ngay từ đầu đã tự cho rằng mình không có đủ khả năng chiến thắng thì sự sống của bạn cũng sẽ vĩnh viễn dừng lại ở đó. Nếu có sống cũng chỉ là sự tồn tại vô ý nghĩa.

 

Cuộc chiến khó khăn nhất thực ra là cuộc chiến với chính mình. Chiến thắng bản thân là vô cùng khó khăn, phức tạp. Đối tượng đấu tranh trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không dễ nhận diện. Bởi lẽ kẻ thù của chúng ta trong cuộc chiến ấy là vô hình và ẩn nấp trong chính bản thân ta. Đó là sự ích kỷ, sự tham lam, tự ti, kiêu ngạo hay thói quen xấu.

Trưởng thành buộc chúng ta phải đối mặt với muôn vàn tình huống, gặp gỡ muôn vàn đối tượng. Lúc còn nhỏ thì dễ bị hấp dẫn bởi những món đồ chơi. Có thể bỏ đồ chơi sang một bên để làm bài tập, đó là chiến thắng bản thân. Mỗi buổi sáng, thức dậy đúng giờ, cố gắng thoát khỏi sự hấp dẫn của giấc ngủ để đến trường đúng giờ. Đó là chiến thắng sự lười biếng của chính mình. Hay việc dũng cảm đứng lên nhận lỗi khi làm sai mà không sợ bị mắng, dám nhận điểm kém vì bản thân chưa chăm chỉ thay vì gian lận... Tất cả đều là chiến thắng bản thân. Nghe thì có vẻ giản đơn nhưng thực tế cần ý chí và nghị lực vô cùng phi thường.

  

Không những thế, nếu không thể chiến thắng bản thân, ngoài việc thất bại, chúng ta còn dễ dàng sa chân vào bùn lầy. Có những việc phải thử nhiều lần mới thành. Một lần thất bại liền từ bỏ đồng nghĩa với việc để nỗi sợ hãi đánh bại. Nhân loại có một nhà bác học tên Ê-đi-xơn, phải kiên trì hơn 1000 lần mới chế tạo thành công dây tóc bóng đèn, đem đến ánh sáng văn minh cho nhân loại. Chiến tranh có hàng ngàn vị anh hùng. Họ rơi vào tay địch, chịu tra tấn dã man cả thể xác lẫn tinh thần, nhưng kiên quyết không phản bội Tổ Quốc. Họ không phải chiến thắng kẻ địch trước mắt mà chiến thắng nỗi sợ hãi tử vong, đau đớn ẩn sâu trong nội tâm mình.

Không tỉnh táo để chế ngự mình sẽ dễ vấp ngã, không nỗ lực khẳng định mình sẽ không bao giờ thành công. Thực tế đã chứng minh bằng rất nhiều tấm gương sáng. Thầy Nguyễn Ngọc Ký sinh ra với hai tay tật nguyền, muốn đi học phải tập viết bằng chân. Bao lần đau đớn, thầy vẫn kiên trì vượt qua và trở thành người thầy lớp lớp học trò kính trọng.

 

Nhiều người có hoàn cảnh kém may mắn vẫn không ngừng nỗ lực vươn lên, chiến thắng mọi trở ngại nội tâm để thành công. Nhưng cũng có không ít bạn trẻ được nuông chiều, bảo bọc bước ra cuộc sống, vừa đối mặt với chút khó khăn liền nản lòng thoái chí. Thậm chí cam chịu, sống hưởng thụ, buông thả bản thân và sa ngã. Dần dần tự mình hủy hoại chính cuộc đời mình. Đó là những trường hợp cần phê phán, nhắc nhở.

Chiến thắng bản thân không dễ dàng. Để có thể làm được điều đó, chúng ta cần rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nâng cao kiến thức và bản lĩnh. Chỉ cần có thể vượt qua mặt tối ẩn sâu trong nội tâm, bạn nhất định sẽ có được thành công.

3 tháng 11 2021

1. Giá trị nội dung

  • Giá trị hiện thực: Cuộc sống quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người ngheo khổ như chị em Liên và An, của mẹ con chị Tí, của bác phở Siêu, của bà cụ Thi điên,...nơi phố huyện buồn tẻ. Cuộc sống của họ quanh đi quẩn lại cũng chỉ có bằng ấy con người, bằng ấy câu chuyện. Bóng tối bao trùm lên tất cả khiến cho chính họ cũng không biết cuộc sống, ánh sáng của họ đang ở đâu
  • Giá trị nhân đạo
    • Sự xót thương đối với những kiếp người nghèo đói, quẩn quanh, bế tắc
    • Ca ngợi khát vọng về cuộc sống mới mẻ, đủ đầy qua hành động đợi chuyến tàu đêm của những gương mặt quen thuộc nơi phố huyện. Họ chờ đợi một ánh sáng rực rỡ, ánh sáng trưng của con tàu từ Hà Nội chứ không phải là thứ ánh sáng le lói, nhạt nhòa nơi phố huyện này

2. Giá trị nghệ thuật

  • Là một truyện ngắn trữ tình, đặc trưng cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam, với những câu chuyện không có cốt truyện, với những cảm xúc mong manh, mơ hồ mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đã từng gặp, ít nhất một lần trong đời.
  • Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật trong khoảng thời gian từ khi hoàng hôn buông xuống đến khi đêm về kết hợp với không gian nghệ thuật hẹp nhưng cụ thể tác giả đã để cho các nhân vật của mình xuất hiện và bộc lộ mình
  • Ngôn ngữ đơn giản, súc tính, giàu tính tạo hình
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:(1) “Thành công và thất bại chỉ đơn thuần là những điểm mốc nối tiếp nhau trong cuộc sống để tôi luyện nên sự trưởng thành của con người. Thất bại giúp con người đúc kết được kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và khiến những thành công đạt được thêm phần ý nghĩa.(2) Không có ai luôn thành công hay thất bại, tuyệt đối thông minh hay dại khờ, tất...
Đọc tiếp

Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:

(1) “Thành công và thất bại chỉ đơn thuần là những điểm mốc nối tiếp nhau trong cuộc sống để tôi luyện nên sự trưởng thành của con người. Thất bại giúp con người đúc kết được kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và khiến những thành công đạt được thêm phần ý nghĩa.

(2) Không có ai luôn thành công hay thất bại, tuyệt đối thông minh hay dại khờ, tất cả đều phụ thuộc vào nhận thức, tư duy tích cực hay tiêu cực của mỗi người. Như chính trị gia người Anh, Sir Winston Churchill, từng nói, "Người bi quan nhìn thấy khó khăn trong mỗi cơ hội, còn người lạc quan nhìn thấy cơ hội trong mỗi khó khăn". Sẽ có những người bị ám ảnh bởi thất bại, bị chúng bủa vây, che lấp những cơ hội dẫn tới thành công. Tuy nhiên, đừng sa vào vũng lầy bi quan đó, thất bại là một lẽ tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống. Đó là một điều bạn không thể tránh khỏi, nếu không muốn nói thực sự là trải nghiệm mà bạn nên có trong đời. Vì vậy, hãy thất bại một cách tích cực.”

(Sưu tầm)

Câu 1: Xác định 2 phép liên kết được sử dụng trong đoạn 2 của văn bản.

Câu 2: Tại sao tác giả lại nói: “thất bại là một lẽ tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống”

Câu 3: Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên: “Hãy thất bại một cách tích cực”.

Câu 4: Điều anh chị tâm đắc nhất qua đoạn trích là gì? Tại sao tác giả lại nói: … “thất bại là một lẽ tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống

0

Trang chủ Văn Mẫu Lớp 11

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ (THẠCH LAM)

Hướng dẫn phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam), lập dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và tham khảo một số bài văn mẫu tuyển chọn hay.

MỤC LỤC NỘI DUNG

  • 1. Hướng dẫn phân tích
  • 1.1. Phân tích đề
  • 1.2. Hệ thống luận điểm
  • 1.3. Lập dàn ý chi tiết
  • 1.4. Sơ đồ tư duy
  • 2. Văn mẫu tham khảo
  • 2.1. mẫu số 1
  • 2.2. mẫu số 2
  • 2.3. mẫu số 3

Tài liệu hướng dẫn phân tích nhân vật Liên do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn gồm những gợi ý cách làm và lập dàn ý chi tiết kèm một số bài văn mẫu hay phân tích hình ảnh nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam).

HƯỚNG DẪN PHÂN TÍCH NHÂN VẬT LIÊN TRONG HAI ĐỨA TRẺ

Đề bài: Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

1. PHÂN TÍCH ĐỀ

- Yêu cầu của đề bài: phân tích nhân vật Liên (Hai đứa trẻ).

- Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những câu văn, từ ngữ, chi tiết tiêu biểu trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

- Phương pháp lập luận chính : phân tích.

2. HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM

Luận điểm 1: Giới thiệu hoàn cảnh sống của Liên

Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn Liên.

3. LẬP DÀN Ý CHI TIẾT

a) Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Thạch Lam là một cây bút của nhóm Tự lực văn đoàn nổi tiếng với phong cách viết văn lãng mạn, giọng văn giàu chất thơ, nhưng không hề ủy mị.

Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam kể về cuộc sống của một huyện nghèo và mong ước của những đứa trẻ.

- Khái quát về nhân vật Liên: là một đứa trẻ hồn nhiên nhưng có ước mơ to lớn, suy nghĩ chín chắn.

b) Thân bài

Luận điểm 1: Giới thiệu hoàn cảnh sống của Liên

- Liên từng sống với gia đình mình ở Hà Nội.

- Cha mất việc, gia đình Liên phải chuyển về sống nơi phố huyện nghèo, tương lai mù mịt.

- Liên và em Liên trông một cửa hàng tạp hóa nhỏ, không bán được bao nhiêu

- Tối nào hai chị em Liên cũng phải ngồi trông quán đến tối mịt.

=> Cuộc sống vất vả, khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp.

Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn Liên.

* Liên – cô bé có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương và giàu lòng trắc ẩn

- Cô bé có tâm hồn nhạy cảm, yêu quê hương:

+ Cảm nhận bức tranh phố huyện lúc chiều tàn với hình ảnh, âm thanh, đường nét, màu sắc : Tiếng trống thu không, “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy”, “tiếng ếch nhái kêu ran”,…

-> Cảm nhận bức họa đồng quê quen thuộc, bình dị, thơ mộng, gợi cảm, mang cốt cách Việt Nam.

+ Cảm nhận rất rõ: “mùi riêng của đất, của quê hương này” từ tâm hồn nhạy cảm

-> Tâm hồn nhạy cảm và lòng yêu quê hương

=> Tâm hồn Liên đã có những cảm nhận hết sức tinh tế trước những thời điểm khác nhau trong ngày.

- Cô bé giàu lòng trắc ẩn

+ Xót thương cho những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện nghèo:

+ Nỗi buồn thấm thía trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ:

  • Thương những đứa trẻ nhà nghèo nhưng không có tiền mà cho chúng.
  • Xót thương mẹ con chị Tí: ngày mò cua bắt tép, tối dọn cái hàng nước chè tươi chả kiếm được bao nhiêu
  • Xót thương bà cụ Thi điên

-> Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, có lòng trắc ẩn, yêu thương con người. Đây cũng là nhân vật mà Thạch Lam gửi gắm tâm tư của mình.

* Liên – cô bé có niềm hi vọng và ước mong vào tương lai tốt đẹp hơn cho cuộc sống nghèo nàn buồn tẻ nơi phố huyện nghèo

- Hàng ngày Liên chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua - chuyến tàu mang theo ước mơ của Liên.

- Tâm hồn luôn hướng về ánh sáng

+ Trong màn đêm em luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa

+ Liên ngước lên trời tìm những vì sao sáng

+ Liên còn tìm ánh sáng với những ngọn đèn

+ Tâm hồn em như một mầm cây khỏe khoắn luôn hướng về nơi có ánh sáng.

- Hướng tới tương lai

+ Trước khi tàu đến

  • Liên cùng em trai dù đã rất buồn ngủ nhưng vẫn cố thức để đợi tàu: Cô thức vì muốn được nhìn thấy chuyến tàu như một hoạt động cuối cùng của đêm khuya
  • Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu
  • Tiếng Liên gọi em một cách cuống quýt, giục giã như thể nếu chậm một chút sẽ mất đi điều gì đó quý giá

-> Liên cố thức đợi chuyến tàu mục đích chính không phải để bán hàng mà là để được nhìn thấy một cuộc sống náo động, một nguồn sáng rực rỡ hơn.

+ Khi tàu đến

  • Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua
  • Dù chỉ trong chốc lát, Liên cũng thấy “những toa hạng trên sang trọng lố nhố người, đồng và kền lấp lánh” -> thế giới khác với cuộc sống thường ngày của chị.
  • Trong tâm hồn cô bé, cơn xúc động vẫn chưa lắng xuống
  • Liên mơ tưởng về Hà Nội, một Hà Nội sáng rực và xa xăm, đẹp, giàu sang và sung sướng... -> Tiếc nuối và ngán ngẩm cho cuộc sống hiện tại.

=> Con tàu như một cuộc sống khác, một thế giới khác. Cô bé đón tàu với tất cả niềm hân hoan và vui sướng.

+ Khi tàu đi

  • Như bao con người khác, Liên cũng “mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống hằng ngày”
  • Khi tàu đi qua, Liên trở về với tâm trạng buồn như cuộc sống thường ngày nơi phố huyện

=> Tâm trạng nuối tiếc, niềm suy tư thao thức về cuộc sống hằng ngày nơi phố huyện nghèo.

c) Kết bài

- Khái quát vẻ đẹp của nhân vật Liên

- Cảm nhận của em về nhân vật.

  “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”

Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương chính là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc sống với tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu mỡ đã được các nhà văn đào sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.

Thế nhưng, cũng nằm trong quan điểm đó, các sáng tác của Thạch Lam lại mang một dấu ấn rất riêng với bút pháp vừa hiện thực lại vừa trữ tình mà tiêu biểu hơn cả chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Qua không gian một phố huyện nghèo xác xơ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên-một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát khao thầm kín.

Bằng những nét phác thảo cơ bản nhưng rất đậm sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp trong tính cách của Liên. Đó là hiện thân của một cô bé giàu lòng nhân hậu và tình yêu thương những cảnh đời khốn khó. Tận sâu trong trái tim non nớt của Liên là sự rung cảm dạt dào và xót xa trước những kiếp người nghèo khổ. Bày lên trước mắt Liên là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa” còn sót lại sau khi đã vãn chợ chiều. Đó cũng là hình ảnh đầy đau xót của mẹ con chị Tí, bác Siêu và gia đình bác xẩm với gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền trên vai đã chẳng bao giờ có thể thoát khỏi vòng đời nghèo khó quanh quẩn.Liên trông thấy tất cả những con người ấy trong một buổi chiều buồn ảm đạm nơi phố huyện nghèo xơ xác. Trong lòng Liên trào dâng một “lòng thương” vô hạn, một nỗi niềm xót xa không gì tả xiết. Bởi lẽ, những cảnh đời khốn khó ấy cũng không ngoại trừ gia đình Liên ra khỏi vòng tay oan nghiệt của nó khi mà với gánh nặng vật chất đang đè nén, họ đã bị xé lẻ đến nghiệt ngả. Từ nỗi buồn đơn sơ trước thời khắc của ngày tàn, Liên đã hướng nỗi buồn của mình sang những người dân nghèo nơi phố huyện cũng như đồng cảm với những cảnh đời lam lũ cơ cực. Trái tim Liên đã hòa chung nhịp đập với con người ở phố huyện-một nhịp đập sâu lắng, nhẹ nhàng mà uất nghẹn khôn nguôi. Để rồi những tình cảm ấy sẽ được phân chất thành một nỗi u sầu đậm đặc trong tâm hồn Liên. Liên thương người là thế, đau xót cho những kiếp khổ triền miên là thế mà cũng đành phải lẳng lặng làm thinh để cho tình thương chôn chặt nơi đáy mắt không thể bật lên thành những hành động cao đẹp. Nỗi đời cơ cực đã chạm những nanh vuốt sắc lạnh của nó đến bên gia đình Liên, đến bên tâm hồn ngây thơ giàu tình cảm của Liên. Tâm hồn ấy mãi cũng chỉ có thể là tiếng khóc thương thầm lặng cho những kiếp người lầm than-một tiếng khóc buồn trong bế tắc khi mà “chính chị cũng không có tiền để cho” những đứa trẻ ấy một chút niềm an ủi mỏng manh. Nhưng cũng chính từ trong bế tắc, tuyệt vọng, tấm lòng của Liên lại hiện lên trước mắt chúng ta vớiđđầy đủ vẻ đẹp của một viên ngọc ngời tỏa. Không những thế, viên ngọc ấy còn như được phủ lên một lớp men đẹp dịu bởi tình thương yêu em và tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ của Liên. Liên không quãng đêm khuya nhọc mệt bủa vây xug quanh mình, vẫn chịu khó cùng An trông hàng giúp mẹ. Mắt Liên đã nặng trĩu sau một ngày dài với bao lo toan, mệt mỏi. Thế nhưng với một tình thương cha, tình yêu mẹ cùng sự cảm thông sâu sắc trước những khó khăn của cha mẹ, Liên vẫn âm thầm làm việc từ ngày này sang ngày khác.Đôi mắt ấy đã mở bừng trong những tình thương dào dạt đối với cha mẹ, với An và đối với tất cả những cảnh đời lay lắt nơi phố huyện. Tình cảm ấy sâu rộng, bao la tựa hồ như một dòng nước suối chảy tràn trong tâm hồn Liên, như làn gió mát dịu vút bay phủ trùm cả phố huyện. Nhẹ nhàng và êm ái, tình cảm của Liên đã đan đầy cả không gian u tối, bộc lộ nên một tính cách đẹp soi rọi cả màn đêm mờ mịt…

Nhưng nếu chỉ xét đến tính cách của Liên thôi thì quả là một sự thiếu xót to lớn khi mà tâm hồn chị vẫn rạng ngời một nét đẹp ngây thơ và giàu mơ mộng. Từ chính lòng thương người và tình yêu thiên nhiên, Liên đã tự vun trồng cho tâm hồn mình thêm phong phú, cảm xúc bản thân thêm tinh tế và sâu sắc. Tình yêu đời đã khơi nguồn cho tất cả nét đẹp thánh thiện trong tâm hồn của Liên. “Liên thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” bởi lẽ sự tàn lụi đơn thuần của thời gian luôn gợi buồn thăm thẳm trong lòng những người có đời sống nội tâm sâu sắc. Hơn thế nữa, cái thời khắc đơn côi ấy luôn làm lòng người gợi nhớ đến kỉ niệm sum họp gia đình trong quây quần ấm cúng với những tình thân bền chặt. Thế nhưng gia đình Liên nào có được niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy khi mà gánh nặng vật chất có hề buông tha cho họ, trói buộc họ vào vòng mưu sinh riêng lẻ. Thiếu hơi ấm tình thân vào thời khắc hiu quạnh nhất trong ngày dài, làm sao Liên có thể tránh cho mình một nỗi buồn sâu lắng? Nỗi buồn ấy dâng đầy trong mắt chị, tràn ra cả không gian để cùng hòa một nốt trầm buồn với phố huyện đìu hiu. Để tìm sự khuây khỏa trong tâm hồn, Liên đã hướng nỗi buồn đến những nơi xa xôi để đắm chìm trong trí tưởng tượng giàu mơ mộng. “Liên lặng ngước nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”. Liên thả hồn mình theo bầu trời bao la, để đêm tối và những vì sao xoa dịu tâm hồn mình. Có lẽ chị thấy lòng mình cũng bớt trĩu nặng hơn khi mà ánh sáng của “vòm trời hàng ngàn vì sao ganh nhau lấp lánh” và “vệt sáng của con đom đóm” đã soi vào mắt mình một chút ấm áp, một chút an ủi và một chút ước ao. Anh sáng, và chỉ có thể là ánh sáng hiếm hoi ở nơi phố huyện tối tăm tù túng này, là thứ duy nhất thắp lên niềm hy vọng nhỏ nhoi trong tâm trí Liên. Từ ánh sáng của thiên nhiên, Liên lại mơ về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” với ánh sáng rực rỡ của tháng ngày quá khứ êm đềm và tràn đầy hạnh phúc. Còn gì tiếc nuối hơn những ngày tháng đã qua, Liên được hưởng tất cả niềm hạnh phúc của trẻ thơ: cùng ba mẹ và em “đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Hiểu một cách đơn giản, hạnh phúc trong quá khứ của Liên không bắt nguồn đơn thuần từ niềm vui vật chất mà chính là từ niềm hạnh phúc gia đình khi được ở bên nhau, cùng hưởng những niềm vui không dứt. Những biến cố không ngờ đã bứt Liên ra khỏi Hà Nội yêu dấu, rời xa niềm hạnh phúc giản dị ấy một cách đớn đau. “Vùng sáng rực và lấp lánh” trong những kỉ niệm ấu thơ giờ đã lụi tắt theo khung trời tối tăm chung quanh phố huyện- một khung trời chật hẹp vẫn ngày đêm cắt những vết thương lòng sâu cay vào trái tim non nớt của Liên. Liên càng đau đớn bao nhiêu thì ngọn lửa ước mơ trong chị lại càng cháy khát bấy nhiêu, như muốn thiêu rụi cả không gian chán chường, buồn tẻ nơi phố huyện. Để rồi khi ngọn lửa ấy bùng cháy mãnh liệt nhất trong một ước mơ khôn nguôi, Liên đã khát khao bỏng rát một tương lai tươi sáng sẽ soi rọi cho những số kiếp lầm than khốn khổ vẫn cứ mãi mỏi mòn trong một ao đời phẳng lặng. Tất cả những ước mơ thầm kín ấy, những khát khao cháy bỏng ấy vẫn cứ ngày đêm âm ỉ một niềm hy vọng trong tâm hồn Liên, giờ đây đã theo đoàn tàu “sáng trưng” và “huyên náo” bay về những chân trời vô định của mộng tưởng ở một miền đất rất xa xăm… Đoàn tàu ấy cũng từ Hà Nội đến, cũng lại từ một miền kí ức rất xa xôi đã đem những gam màu tươi tắn điểm xuyến vào cuộc sống thực tại tẻ nhạt của Liên, để Liên lại có thể sống trong một miền kí ức đẹp dù chỉ trong phút giâyngắn ngủi. Rồi   khi đoàn tàu đã đi xa trên con đường bất tận của nó, những mơ ước vốn mơ hồ mong manh giờ đây lại rơi vào vô vọng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng. Và từ trong hy vọng, ta lại phát hiện và thêm trân trọng một tâm hồn đẹp vẫn luôn luôn tỏa sáng chống lại đêm đen, tuôn trào không bao giờ cạn một nguồn sống đầy những ước mơ, làm bừng lên sức sống từ trong sự điêu tàn của nghịch cảnh…

Qua những điều trên, ta càng thấu rõ những vẻ đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên. Bằng một nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp ấy từ một viên ngọc quý với gam màu dịu nhẹ và đường nét thanh tao. Viên ngọc ấy sẽ còn mãi tỏa ánh sáng êm đẹp trên nền hiện thực xã hội đầy ngang trái, bế tắc. Đường đi trước mắt của Liên tuy còn tăm tối nhưng những ước mơ đã thật sự mở ra trên con đường ấy một ít ánh sáng, một ít tương lai. Và bất cứ ai trong chúng ta một khi đã đọc qua câu chuyện của Liên sẽ có một niềm tin rằng: dù buổi chiều hôm ấy cũng như buổi chiều của những ngày hôm sau có lụi tàn đi trong vầng dương cháy bỏng hay đêm tối tĩnh mịch thì tâm hồn và tính cách của Liên sẽ còn mãi ngời tỏa sâu sắc trong lòng tất cả chúng ta.

  • Phân tích tâm trạng của hai đứa trẻ khi đợi tàu



Xem thêm tại: https://doctailieu.com/phan-h-nhan-vat-lien-trong-truyen-hai-dua-tre-p1004

  “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”

Nhận định của Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thiên chức của văn chương chính là tấm gương phản ánh trung thành hiện thực cuộc sống khách quan qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Dù được sáng tác bằng bất cứ thể loại nào và trong bất cứ thời đại nào, ngòi bút của các nhà văn luôn hướng đến cuộc sống với tất cả những nỗi niềm, dù là vui tươi yêu đời hay đau khổ đến phẫn uất của con người. Đây cũng chính là mảnh đất cội nguồn màu mỡ đã được các nhà văn đào sâu và khai phá tự muôn thuở của văn chương.

Thế nhưng, cũng nằm trong quan điểm đó, các sáng tác của Thạch Lam lại mang một dấu ấn rất riêng với bút pháp vừa hiện thực lại vừa trữ tình mà tiêu biểu hơn cả chính là truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Qua không gian một phố huyện nghèo xác xơ trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Thạch Lam đã khắc họa nên những nét đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên-một cô bé hồn nhiên, đáng yêu, giàu tình người và những khát khao thầm kín.

Bằng những nét phác thảo cơ bản nhưng rất đậm sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp trong tính cách của Liên. Đó là hiện thân của một cô bé giàu lòng nhân hậu và tình yêu thương những cảnh đời khốn khó. Tận sâu trong trái tim non nớt của Liên là sự rung cảm dạt dào và xót xa trước những kiếp người nghèo khổ. Bày lên trước mắt Liên là hình ảnh của “những đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt nhạnh những thanh tre, thanh nứa” còn sót lại sau khi đã vãn chợ chiều. Đó cũng là hình ảnh đầy đau xót của mẹ con chị Tí, bác Siêu và gia đình bác xẩm với gánh nặng cơm, áo, gạo, tiền trên vai đã chẳng bao giờ có thể thoát khỏi vòng đời nghèo khó quanh quẩn.Liên trông thấy tất cả những con người ấy trong một buổi chiều buồn ảm đạm nơi phố huyện nghèo xơ xác. Trong lòng Liên trào dâng một “lòng thương” vô hạn, một nỗi niềm xót xa không gì tả xiết. Bởi lẽ, những cảnh đời khốn khó ấy cũng không ngoại trừ gia đình Liên ra khỏi vòng tay oan nghiệt của nó khi mà với gánh nặng vật chất đang đè nén, họ đã bị xé lẻ đến nghiệt ngả. Từ nỗi buồn đơn sơ trước thời khắc của ngày tàn, Liên đã hướng nỗi buồn của mình sang những người dân nghèo nơi phố huyện cũng như đồng cảm với những cảnh đời lam lũ cơ cực. Trái tim Liên đã hòa chung nhịp đập với con người ở phố huyện-một nhịp đập sâu lắng, nhẹ nhàng mà uất nghẹn khôn nguôi. Để rồi những tình cảm ấy sẽ được phân chất thành một nỗi u sầu đậm đặc trong tâm hồn Liên. Liên thương người là thế, đau xót cho những kiếp khổ triền miên là thế mà cũng đành phải lẳng lặng làm thinh để cho tình thương chôn chặt nơi đáy mắt không thể bật lên thành những hành động cao đẹp. Nỗi đời cơ cực đã chạm những nanh vuốt sắc lạnh của nó đến bên gia đình Liên, đến bên tâm hồn ngây thơ giàu tình cảm của Liên. Tâm hồn ấy mãi cũng chỉ có thể là tiếng khóc thương thầm lặng cho những kiếp người lầm than-một tiếng khóc buồn trong bế tắc khi mà “chính chị cũng không có tiền để cho” những đứa trẻ ấy một chút niềm an ủi mỏng manh. Nhưng cũng chính từ trong bế tắc, tuyệt vọng, tấm lòng của Liên lại hiện lên trước mắt chúng ta vớiđđầy đủ vẻ đẹp của một viên ngọc ngời tỏa. Không những thế, viên ngọc ấy còn như được phủ lên một lớp men đẹp dịu bởi tình thương yêu em và tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ của Liên. Liên không quãng đêm khuya nhọc mệt bủa vây xug quanh mình, vẫn chịu khó cùng An trông hàng giúp mẹ. Mắt Liên đã nặng trĩu sau một ngày dài với bao lo toan, mệt mỏi. Thế nhưng với một tình thương cha, tình yêu mẹ cùng sự cảm thông sâu sắc trước những khó khăn của cha mẹ, Liên vẫn âm thầm làm việc từ ngày này sang ngày khác.Đôi mắt ấy đã mở bừng trong những tình thương dào dạt đối với cha mẹ, với An và đối với tất cả những cảnh đời lay lắt nơi phố huyện. Tình cảm ấy sâu rộng, bao la tựa hồ như một dòng nước suối chảy tràn trong tâm hồn Liên, như làn gió mát dịu vút bay phủ trùm cả phố huyện. Nhẹ nhàng và êm ái, tình cảm của Liên đã đan đầy cả không gian u tối, bộc lộ nên một tính cách đẹp soi rọi cả màn đêm mờ mịt…

Nhưng nếu chỉ xét đến tính cách của Liên thôi thì quả là một sự thiếu xót to lớn khi mà tâm hồn chị vẫn rạng ngời một nét đẹp ngây thơ và giàu mơ mộng. Từ chính lòng thương người và tình yêu thiên nhiên, Liên đã tự vun trồng cho tâm hồn mình thêm phong phú, cảm xúc bản thân thêm tinh tế và sâu sắc. Tình yêu đời đã khơi nguồn cho tất cả nét đẹp thánh thiện trong tâm hồn của Liên. “Liên thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn” bởi lẽ sự tàn lụi đơn thuần của thời gian luôn gợi buồn thăm thẳm trong lòng những người có đời sống nội tâm sâu sắc. Hơn thế nữa, cái thời khắc đơn côi ấy luôn làm lòng người gợi nhớ đến kỉ niệm sum họp gia đình trong quây quần ấm cúng với những tình thân bền chặt. Thế nhưng gia đình Liên nào có được niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ấy khi mà gánh nặng vật chất có hề buông tha cho họ, trói buộc họ vào vòng mưu sinh riêng lẻ. Thiếu hơi ấm tình thân vào thời khắc hiu quạnh nhất trong ngày dài, làm sao Liên có thể tránh cho mình một nỗi buồn sâu lắng? Nỗi buồn ấy dâng đầy trong mắt chị, tràn ra cả không gian để cùng hòa một nốt trầm buồn với phố huyện đìu hiu. Để tìm sự khuây khỏa trong tâm hồn, Liên đã hướng nỗi buồn đến những nơi xa xôi để đắm chìm trong trí tưởng tượng giàu mơ mộng. “Liên lặng ngước nhìn lên các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông”. Liên thả hồn mình theo bầu trời bao la, để đêm tối và những vì sao xoa dịu tâm hồn mình. Có lẽ chị thấy lòng mình cũng bớt trĩu nặng hơn khi mà ánh sáng của “vòm trời hàng ngàn vì sao ganh nhau lấp lánh” và “vệt sáng của con đom đóm” đã soi vào mắt mình một chút ấm áp, một chút an ủi và một chút ước ao. Anh sáng, và chỉ có thể là ánh sáng hiếm hoi ở nơi phố huyện tối tăm tù túng này, là thứ duy nhất thắp lên niềm hy vọng nhỏ nhoi trong tâm trí Liên. Từ ánh sáng của thiên nhiên, Liên lại mơ về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” với ánh sáng rực rỡ của tháng ngày quá khứ êm đềm và tràn đầy hạnh phúc. Còn gì tiếc nuối hơn những ngày tháng đã qua, Liên được hưởng tất cả niềm hạnh phúc của trẻ thơ: cùng ba mẹ và em “đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Hiểu một cách đơn giản, hạnh phúc trong quá khứ của Liên không bắt nguồn đơn thuần từ niềm vui vật chất mà chính là từ niềm hạnh phúc gia đình khi được ở bên nhau, cùng hưởng những niềm vui không dứt. Những biến cố không ngờ đã bứt Liên ra khỏi Hà Nội yêu dấu, rời xa niềm hạnh phúc giản dị ấy một cách đớn đau. “Vùng sáng rực và lấp lánh” trong những kỉ niệm ấu thơ giờ đã lụi tắt theo khung trời tối tăm chung quanh phố huyện- một khung trời chật hẹp vẫn ngày đêm cắt những vết thương lòng sâu cay vào trái tim non nớt của Liên. Liên càng đau đớn bao nhiêu thì ngọn lửa ước mơ trong chị lại càng cháy khát bấy nhiêu, như muốn thiêu rụi cả không gian chán chường, buồn tẻ nơi phố huyện. Để rồi khi ngọn lửa ấy bùng cháy mãnh liệt nhất trong một ước mơ khôn nguôi, Liên đã khát khao bỏng rát một tương lai tươi sáng sẽ soi rọi cho những số kiếp lầm than khốn khổ vẫn cứ mãi mỏi mòn trong một ao đời phẳng lặng. Tất cả những ước mơ thầm kín ấy, những khát khao cháy bỏng ấy vẫn cứ ngày đêm âm ỉ một niềm hy vọng trong tâm hồn Liên, giờ đây đã theo đoàn tàu “sáng trưng” và “huyên náo” bay về những chân trời vô định của mộng tưởng ở một miền đất rất xa xăm… Đoàn tàu ấy cũng từ Hà Nội đến, cũng lại từ một miền kí ức rất xa xôi đã đem những gam màu tươi tắn điểm xuyến vào cuộc sống thực tại tẻ nhạt của Liên, để Liên lại có thể sống trong một miền kí ức đẹp dù chỉ trong phút giâyngắn ngủi. Rồi   khi đoàn tàu đã đi xa trên con đường bất tận của nó, những mơ ước vốn mơ hồ mong manh giờ đây lại rơi vào vô vọng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng. Và từ trong hy vọng, ta lại phát hiện và thêm trân trọng một tâm hồn đẹp vẫn luôn luôn tỏa sáng chống lại đêm đen, tuôn trào không bao giờ cạn một nguồn sống đầy những ước mơ, làm bừng lên sức sống từ trong sự điêu tàn của nghịch cảnh…

Qua những điều trên, ta càng thấu rõ những vẻ đẹp trong tính cách và tâm hồn của nhân vật Liên. Bằng một nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, Thạch Lam đã tạc tạo nên những nét đẹp ấy từ một viên ngọc quý với gam màu dịu nhẹ và đường nét thanh tao. Viên ngọc ấy sẽ còn mãi tỏa ánh sáng êm đẹp trên nền hiện thực xã hội đầy ngang trái, bế tắc. Đường đi trước mắt của Liên tuy còn tăm tối nhưng những ước mơ đã thật sự mở ra trên con đường ấy một ít ánh sáng, một ít tương lai. Và bất cứ ai trong chúng ta một khi đã đọc qua câu chuyện của Liên sẽ có một niềm tin rằng: dù buổi chiều hôm ấy cũng như buổi chiều của những ngày hôm sau có lụi tàn đi trong vầng dương cháy bỏng hay đêm tối tĩnh mịch thì tâm hồn và tính cách của Liên sẽ còn mãi ngời tỏa sâu sắc trong lòng tất cả chúng ta.

  •  
1 tháng 11 2021

bạn ơi bạn phải trả lời câu hỏi đúng thì người ta mới tick cho chứ bạn ko đc đi xin nha

Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, em ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), xuất thân từ một gia đình công chức gốc quan lại. Ông nội nhà văn quê ở làng Cẩm Phô, Hội An, Quảng Nam, ra làm quan ở đất Bắc rồi sống luôn ngoài ấy. Thạch Lam sinh năm 1910, tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, quê mẹ. Lớn lên, ông học Trung học ở Hà Nội, rồi bỏ học đi làm báo, viết văn cùng các anh và trở thành một cây bút đắc lực của báo Phong hóa và Ngày nay. Sự nghiệp văn chương đang trên đà phát triển thì ông mắc bệnh lao và mất năm 1942, mới 32 tuổi.

Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Ông có nhiều đóng góp đáng quý cho sự nghiệp phát triển văn xuôi trước Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thể loại truyện ngắn. Tác phẩm Thạch Lam để lại là truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc,… tiểu thuyết Ngày mới; bút kí Hà Nội 36 phố phường; tiểu luận: Theo dòng…

Truyện ngắn Hai đứa trẻ trích từ tập Nắng trong vườn (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1938). Cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.

Hai đứa trẻ nói về hai chị em Liên và An. Chị độ mười hai, mười ba; em lên tám, lên chín. Gia đình trước ở Hà Nội, sau vì sa sút nên phải về quê ở phố huyện này. Mẹ bận làm hàng xay hàng xáo, giao cho hai chị em trông coi quầy hàng xén nhỏ xíu ở gần ga. Mẹ dặn phải thức cho đến khi xe lửa đi qua, may ra còn có người ở tàu xuống ghé mua hàng. Hai chị em ngồi trên chõng trước hiên chờ. Em buồn ngủ, ngả vào người chị nhưng vẫn nhắc hễ tàu đến thì đánh thức dậy. Chị ngồi nhìn quang cảnh xung quanh. Sự sống chỉ còn thu lại ở cái chõng hàng nước, một gánh phở, một gia đình nhà xẩm. Tất cả đều chìm trong bóng tối mênh mông, còn ánh sáng rực rỡ trên các toa tàu thì vun vút qua mau như từ một cõi nào xa lạ. Hai chị em trông theo làn ánh sáng ấy cho đến lúc nó khuất hẳn ở đằng xa mới đóng cửa đi ngủ.

Nội dung truyện chỉ có vậy nhưng cả một thế giới đã được gợi lên với niềm thương cảm sâu xa. Đó là một thế giới âm thầm, lặng lẽ trong bóng tối của đêm đen; bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó; trong im lìm quạnh quẽ của phố huyện xác xơ. Những đốm sáng lù mù, leo lét lại càng làm nổi rõ thêm màu sắc u ám của cuộc sống khốn cùng. Cũng như ánh sáng rực rỡ thoáng qua ở các toa tàu có vẻ như một ảo ảnh xa xôi không bao giờ dám mơ ước tới. Cái thế giới ấy hai đứa trẻ đã quen thuộc, hơn nữa, đã hòa nhập vào đó với tất cả tâm hồn.

Tác giả chia truyện ra làm ba phần theo trình tự chuyển biến của thời gian và không gian. Phần một là cảnh chợ chiều lúc vừa có tiếng trống thu không, hai chị em Liên đang còn loay hoay xếp dọn cửa hàng. Phần hai là quang cảnh phố huyện về đêm, bóng tối bao phủ khắp nơi. Dấu hiệu của sự sống chỉ còn là mấy ánh đèn. Phần ba là cảnh phố huyện lúc có chuyến tàu đêm vun vút chạy qua trong chốc lát cùng tiếng ồn và ánh sáng.

Câu chuyện diễn ra trong một khung cảnh thiên nhiên được cảm nhận ở cả hai chiều thời gian và không gian. Đó là khoảng thời gian rất ngắn, không gian có sự thay đổi từ cảnh chiều tàn cho đến khi màn đêm buông xuống và đất trời về khuya. Màu sắc của cảnh vật thì từ nhờ nhờ chuyển sang đen sẫm. Màu của cuộc sống ban đêm càng khuya càng tăm tối. Trên cái nền ấy nổi lên một số cảnh tình cứ xoáy mãi vào lòng người đọc. Đó là cảnh ngày tàn nơi phố huyện nhỏ bé, một phiên chợ tàn, một góc chợ đơn sơ, một quán nước nghèo nàn, những kiếp người cơ cực và hình ảnh đoàn tàu vụt qua trong đêm tối.

Mở đầu truyện là hình ảnh phố huyện lúc hoàng hôn được tác giả miêu tả bằng những câu văn có nhịp điệu thong thả, chậm rãi, cùng với những âm thanh, hình ảnh báo hiệu đã hết một ngày:

Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị; Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.

Các hình ảnh trên đều gợi cảm giác bâng khuâng, man mác.. Gọi là phố huyện nhưng là huyện nhỏ, hiệu lệnh phát ra từ một cái chòi chứ không phải là một tháp canh. Cái chòi bé tí lại lẩn vào dãy tre làng đang đen lại, vào lúc trời tây đỏ rực nhưng sắp tàn. Ngoài cánh đồng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng của chị em Liên, tiếng muỗi vo ve. Liên bỗng dưng thấy cái buồn của ngày tàn thấm thìa vào tâm hồn khi ngồi bên cạnh những quả thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy dần bóng tối.

Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hoà trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Chẳng hạn: tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều là thơ mộng; còn tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve… thì đã gợi ra cuộc sống nghèo nàn nơi thôn dã.

Thật ra, cũng khó mà nói cho rạch ròi nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người hay nỗi buồn trong tâm hồn thơ ngây của hai chị em lan tỏa ra, nhuốm vào cảnh vật. Chỉ biết ở đây có một cái gì đó thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người.

Đoạn văn mở đầu vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương.

Sau một ngày làm lụng cực nhọc, cái chờ đợi mọi người chỉ là bóng tối và sự vắng lặng, quạnh hiu. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của chợ.

Bấy nhiêu chi tiết đều tập trung vào xu thế thu nhỏ lại, lụi tàn đi của những cảnh vật ban ngày trước cái thế chiếm lĩnh, tràn dâng mỗi lúc một mạnh của những cảnh tình ban đêm mà bóng tối dần dần ngự trị. Mở đầu truyện là bóng tối, chấm dứt truyện cũng là bóng tối. Bóng tối mênh mang, phủ trùm lên tất cả cảnh vật và con người.

Lúc còn tranh tối tranh sáng, tuy các nhà đã lên đèn nhưng những nguồn sáng ấy không thể xua tan bóng tối, khiến những hòn đá nhỏ hãy còn một bên tối. Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Toàn là bóng tối. Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại đen sẫm hơn nữa. Trống cầm canh cũng đánh tung lên một tiếng ngắn rồi chìm ngay vào bóng tối. Lúc này, các cửa hàng cơm ở ga cũng im lặng, tối đen như ngoài phố. Con tàu với ánh đèn sáng trưng đi qua rồi thì đêm tối lại bao quanh, màn đêm của đất quê, của đồng ruộng mênh mang và im lặng. Chị em Liên cũng đi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối.

Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời… Thứ ánh sáng xa vời ấy là sản phẩm của đêm, hoà tan trong bóng đêm. Đáng chú ý là ngọn đèn le lói trên chõng hàng nước của mẹ con chị Tí, bếp lửa thấp thoáng nơi gánh phở của bác Siêu, ánh đèn yếu ớt trong quầy hàng của chị em Liên và từ cái đèn lồng trong tay người nhà hiệu khách, từ chiếc đèn ghi xanh lét của nhà ga. Ngọn đèn trên chõng hàng nước của chị Tí chỉ là một quầng sáng nhỏ nhoi giữa mặt đất ngập tràn bóng đêm, dưới một bầu trời bao la thăm thẳm đầy bí mật. Bếp lửa của bác Siêu chỉ là một chấm lửa nhỏ và vàng, lơ lửng đi trong đêm tối, thoáng hiện, thoáng mất, chỉ làm cho bóng bác mênh mang. Ánh đèn trong cửa hàng chị em Liên thì thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên nứa. Ánh đèn lồng thì lung lay cái bóng đen dài của người cầm đèn. Chiếc đèn ghi thì lửa xanh biếc như ma trơi. Trong khi đó, chung quanh những điểm sáng leo lét ấy là cả một bóng tối đen kịt, mênh mông, vô tận. Những hột sáng, những chấm lửa ấy chỉ làm cho bóng đêm thêm dày đặc, âm u.

Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Những kẻ kiếm sống ban ngày với phiên chợ như mấy bà bán hàng về muộn, mấy đứa trẻ nhặt rác, chị em Liên. Những người kiếm sống ban đêm quanh góc chợ và sân ga xép như mẹ con chị Tí, bà cụ Thi, bác phở Siêu, gia đình bác xẩm…

Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng.

Sau khi phiên chợ chiều đã vãn, bóng tối chưa buông xuống nhưng những cuộc đời bóng tối đã hiện ra. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ tranh nhau nhặt nhạnh tất cả những gì có thể dùng được, một thanh nứa, thanh tre hay bất kì cái gì. Đó là cuộc sống cùng khổ của chúng với những thứ mà người ta đã vứt đi.

Vào đêm thì có cuộc đời của mẹ con chị Tí với cái hàng nước đơn sơ. Ban ngày thì hai mẹ con mò cua bắt tép; từ chập tối cho đến đêm thì bán nước chè tươi, điếu thuốc lào cho dăm ba phu gạo, phu xe, mấy chú lính trong huyện hay người nhà thầy thừa, thầy lục, có khi chờ mãi mà chẳng thấy ai ra. Hai mẹ con vừa xách, vừa vác trên lưng, vừa đội trên đầu… vậy mà chỉ vẻn vẹn có cái chõng tre, vài mặt ghế, cái ấm mấy cái chén, chiếc điếu cày, nắm đóm… Thằng con loay hoay nhóm lửa nấu nồi nước chè. Nước, thuốc đã sẵn sàng. Chị Tí luôn tay phe phẩy túm lá chuối khô, bất giác thốt lên nỗi nóng lòng sốt ruột trước cảnh ế ẩm: Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ? Dù rằng chị đã biết trước: Ối chao, sớm với muộn thì có ăn thua gì! Câu nói ngẫu nhiên mà giúp người đọc hình dung tận đáy cảnh sống của mẹ con chị, đã cơ cực mà chỉ còn trông cậy vào sự rủi may, một sự trông chờ cầm chắc là chẳng mấy hi vọng.

Nhưng mẹ con chị Tí vẫn có một chiếc ghế để ngồi, một ngọn đèn để soi sáng; còn gia đình bác xẩm thì nằm ngồi ngổn ngang ngay trong chiếc chiếu rách trải trên mặt đất. Thằng con nhỏ bò ra đất, cái thau sắt trắng chờ tiền thưởng trống trơn để trước mặt. Im lìm như một gia đình bò sát, nếu không có mấy tiếng đàn bầu bần bật nổi lên góp chuyện. Rồi sau đó không khách, không hát, không tiền, họ lăn ra ngủ luôn trên đất.

Còn cảnh sống bí hiểm của bà cụ Thi, một bà cụ già hơi điên. Bà đến quán của chị em Liên với tiếng cười khanh khách quen thuộc, mua cút rượu (xị rượu), khen Liên rót đầy rồi ngửa cổ uống cạn sạch, lảo đảo bước đi, lẩn vào bóng tối và tiếng cười khanh khách nhỏ dần.

Ba cảnh đời trên của lũ trẻ ven chợ, của mẹ con chị Tí, của gia đình bác xẩm đều bị bóng tối của sự nghèo nàn, khốn khó phủ lên đen ngòm. Sự thê thảm lồ lộ, chẳng ẩn giấu chút gì. Riêng bà cụ Thi vẫn có tiền uống rượu, vẫn nói năng ôn tồn, âu yếm với cô bé bán hàng nhưng rượu thì nốc một hơi, lại cười khanh khách, không biết vì duyên cớ gì? Đêm đêm, chỉ thấy bà từ trong làng đi ra rồi lại lẩn vào bóng tối phía làng. Oan ức gì chăng? Buồn khổ gì chăng? Không rõ, nhưng chắc chắn bóng tối đã đè nặng lên cuộc đời bà, góp thêm một hình ảnh vừa lạ lùng vừa đáng sợ vào những cảnh đời – bóng tối ở phố huyện này.

Bác Siêu bán phở không xa nhưng cũng không gần các cảnh đời kia. Bác như dấu gạch nối giữa hạng người bần cùng với những hạng người khác trong phố huyện. Họ thấp thoáng ở nơi có người cầm đèn lồng đi đón bà chủ ở ga về, nơi có hội bài tổ tôm sát phạt nhau hàng chục bạc mà hạng người khốn khổ nằm mơ cũng không thấy nổi, nơi có lính tráng đánh trống thu không và mõ cầm canh. Cuộc sống khá giả của họ như tấm phông làm nổi bật những cảnh đói nghèo, như ánh sáng tương phản với bóng tối.

Trong bối cảnh của truyện, nét nào cũng tối đen: lũ trẻ ven chợ như loài dơi chờ xẩm tối mới mò ra, tìm cái sống ở bất cứ cái gì người ta vứt đi. Mẹ con chị Tí hàng nước kiếm sống ở sự chờ đợi rủi may. Gia đình nhà xẩm hầu như sắp lẩn mình vào đất. Bà cụ Thi hơi điên chứa chất một góc tối om trong sâu kín tâm hồn. Nhập chung lại thì toàn là những cảnh đời – bóng tối. Liệu còn le lói chút uớc mong nào không? Khung cảnh phố huyện giờ đây thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí, bởi ở đó còn có ngọn đèn tù mù, trong khi cả phố tối om. Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì đó tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.

Trong bức tranh phố huyện lúc đêm về có một sự hoà trộn đầy dụng ý giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng thì chỉ là khe sáng, chấm sáng, hột sáng,… mà bóng đêm thì vừa dày đặc vừa mênh mông. Tối hết cả con đường ra sông, con đường vào làng, các ngõ càng thẫm đen hơn nữa. Tối đến mức dường như tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được. Điều này khiến người đọc phần nào hình dung ra những kiếp sống chìm khuất, mỏi mòn gần như bị bỏ quên nơi ga xép của phố huyện nghèo nàn, đồng thời gợi một niềm thương cảm sâu xa.

Diễn biến tâm trạng hai đứa trẻ trước khung cảnh thiên nhiên và bức tranh đời sống nơi phố huyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả tỉ mỉ và ẩn chứa nhiều ý nghĩa.

Chưa nói tới dụng ý của tác giả khi xây dựng hình tượng hai đứa trẻ và lấy đó làm nhan đề cho tác phẩm; hãy cứ biết đó là hai đứa trẻ với những đặc điểm của lứa tuổi thiếu nhi. Chị đã biết quý mến và hãnh diện với cái dây xà tích bạc vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Như thế thì chưa hẳn là lớn mà vẫn vương chút trẻ con. Biết thay mẹ tính toán tiền nong, sắp xếp hàng họ, biết thương em, đó mới thật là cô gái lớn ngoan hiền.

Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo.

Hai chị em trước đây sống ở Hà Nội cùng gia đình, nhưng vì cảnh nhà sa sút nên mới dọn về đây. Mẹ mở một quán tạp hoá nhỏ xíu giao cho hai chị em trông nom. Ban ngày bán hàng, ban đêm đóng cửa cài then cẩn thận. Chập tối, mẹ ghé qua thăm, dặn các con phải thức đến lúc xe lửa đi qua mới được ngủ. Vì thế nên hai chị em Liên đã quen thuộc với con người và cảnh vật trong phố huyện, đã hoà nhập vào cuộc sống nơi này một cách hồn nhiên.

Trước hết là quen với bóng tối. Hà Nội nhiều đèn quá, một vùng sáng rực và lấp lánh, còn ở đây thì ngược tại. Màn đêm buông xuống, mắt Liên ngập dần bóng tối và Liên không hiểu sao, thấy buồn. Dần dần, Liên quen không sợ bóng tối mà còn chú ý đến những gì diễn ra và chứa đựng trong đó: thấy những hòn đá nhỏ trên đường một bên sáng một bên tối; cảm nhận mùi âm ẩm lẫn mùi cát bụi lúc chợ đã vãn mà tưởng là mùi riêng của đất này. Nhìn lũ trẻ nghèo nhặt nhạnh bất cứ cái gì trên nền chợ mà hai chị em động lòng thương. Khi mẹ con chị Tí mang vác cả hàng nước ra, Liên lặng lẽ quan sát từng cử chỉ một. Nghe tiếng cười khanh khách là Liên nhận ngay ra bà cụ Thi. Nhìn bọn trẻ nô đùa, An cũng muốn nhập bọn nhưng sợ trái lời mẹ dặn. Thấy một chấm lửa hiện ra rồi mất đi là hai chị em biết gánh phở bác Siêu thấp thoáng đằng xa. Lúc mọi nơi đều đã tối đen, ánh sáng từ ngọn đèn trong quán toả ra chỉ là vài hột sáng lọt qua phên nứa, thì hai chị em đã buồn ngủ ríu cả mắt. Khi đoàn tàu đã đi qua thì hai tâm hồn trẻ thơ ấy cũng rơi vào giấc ngủ tịch mịch và đầy bóng tối, giống như mọi người nghèo khổ khác ở phố huyện này.

Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Có phải là các em chỉ đơn giản muốn được nhìn chuyến tàu, một hoạt động cuối cùng của đêm khuya? Không phải! Còn có cái gì đó sâu xa hơn nhiều đối với hai chị em và đám người khốn khổ ở phố huyện này. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng.

Có lẽ chính vì vậy mà hình ảnh chuyến tàu được Thạch Lam tập trung miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng qua tâm trạng chờ mong và cảm nhận của hai chị em Liên và An. Cách quan sát, miêu tả của Thạch Lam tinh tế và giàu tính nghệ thuật. Tác giả quan sát, miêu tả hình ảnh đoàn tàu đêm từ Hà Nội về theo trình tự từ xa đến gần bằng nhiều giác quan, bằng sự đan xen giữa hồi ức và thực tại.

Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre…

Có một sự tương phản nổi bật giữa hình ảnh đoàn tàu – một thế giới khác mà chuyến tàu đêm mang qua phố huyện trong chốc lát và hình ảnh của sự trở về trạng thái lặng lẽ, tối tăm, không thay đổi nơi phố huyện. Một bên là sự hoạt động nào nhiệt cuối cùng của đêm và một bên là sự im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm sáng rực, vui vẻ và huyên háo, đầy hấp dẫn nhưng lại chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc không nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa.

Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này.

Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng.

Đối với người đọc, vẻ đẹp của đoàn tàu và thái độ háo hức, sung sướng đến lặng người của hai đứa trẻ khi ngắm đoàn tàu không chỉ đem đến một thoáng vui mà còn gợi thật nhiều bâng khuâng, thương cảm.

Đúng là hai đứa trẻ vui vì niềm khao khát, đợi chờ vừa được thỏa mãn. Nhưng đoàn tàu ấy lại thuộc về một thế giới quá xa xôi và nó càng sáng rực, vui vẻ, huyên náo thì càng làm cho khung cảnh nơi phố huyện trở nên tăm tối, buồn tẻ và chìm lặng. Chỉ có hình ảnh đoàn tàu lướt qua hằng đêm mà những người dân phố huyện ai cũng nôn nao chờ đợi. Người đọc cùng Thạch Lam thông cảm với tâm trạng của lớp người sống lầm lũi trong tăm tối, nghèo khổ. Tuy thế, truyện cũng nhen nhóm trong lòng người đọc hi vọng vượt lên sự tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống hằng ngày.

Nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch Lam trong truyện Hai đứa trẻ thật độc đáo. Tác giả miêu tả rất tinh tế sự biến đổi của cảnh vật và diễn biến tâm trạng của nhân vật. Cách miêu tả này góp phần quan trọng tạo nên không khí cho tác phẩm.

Có sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế, giới nội tâm nhân vật (tâm trạng cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn man mác; cảnh đêm xuống thì người đợi chờ khắc khoải; cảnh đêm khuya, chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao,…

Tuy nhiên, ở một vài đoạn văn, tác giả miêu tả thế giới ngoại cảnh và thế giới nội tâm không thuần nhất mà có sự pha trộn vui buồn khó tả. Những hình ảnh êm đềm thi vị hoà trộn với hình ảnh nghèo nàn lam lũ; ánh sáng hoà trộn vào bóng tối; cái huyên náo chốc lát hoà vào cái im lặng mênh mông… Tất cả những cái đó kết hợp với nhau thật hài hoà, tự nhiên, làm nổi bật tâm trạng của nhân vật.

Giọng văn Thạch Lam nhẹ nhàng, khách quan nhưng ẩn chứa một tình cảm xót thương thực sự đối với những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng trân trọng. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả tinh tế mà vẫn rất tự nhiên, khiến người đọc khó quên.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ là lời gợi nhắc về tình cảm gắn bó với nguồn cội, quê hương, với những kí ức đẹp mà buồn. Đó là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn; là niềm trân trọng đối với từng mong ước nhỏ nhoi của những con người bất hạnh bị bỏ quên nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian vô định.

Đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ, ta thấy đằng sau vẻ chân chất, dung dị lại là sự tinh vi, sâu sắc, rất đúng với phong cách Thạch Lam. Đi vào tác phẩm của Thạch Lam là đi vào thế giới tâm tình. Tình tiết của truyện đơn sơ nhưng chính những cảm nghĩ chân thành của nhà văn đối với những mảnh đời khốn khó khiến cho người đọc xúc động. Nhà văn Nguyễn Tuân đã nhận xét: Truyện “Hai đứa trẻ" có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm về quả vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai… Nơi cái thế giới quan của một đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ" thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín. (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học – Hà Nội – 1998)

Thạch Lam đã nhập thân vào nhân vật Liên để khám phá, cảm nhận phố huyện. Liên mới 8 tuổi nhưng đã sớm có những quan sát, nhạy cảm trước sự thay đổi của cuộc sống. Thạch Lam đã rất tinh tế khi miêu tả được những diễn biến tâm lý phức tạp trong Liên trong một khoảnh khắc ngắn của thời gian từ chiều tà đến đêm tối. Mọi diễn biến của cuộc sống xung quanh, từng sự thay đổi dù là sự nhỏ nhất của mảnh đất Liên đang sống cũng được nắm bắt qua đôi mắt và cảm nhận của Liên.

Liên là cô bé nhạy cảm, hay động lòng trắc ẩn trước những biến thiên của cuộc đời, đặc biệt là những lay lắt, mòn mỏi của xã hội cũ. "CHIỀU! Chiều rồi, một buổi chiều êm ả như ru". Truyện mở đầu bằng âm thanh của tiếng trống thu không vang xa để gọi buổi chiều như báo hiệu một ngày dài đã kết thúc. Chuẩn bị là đêm xuống với bao ám ảnh. Qua đôi mắt của Liên "Chiều. Chiều rồi" như một lời thảng thốt, bàng hoàng, như một tiếng thở dài. Không gian phố huyện được mở ra như đượm một nỗi buồn hiu hắt. Khoảnh khắc cuối ngày là sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối nhưng dường như "những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn".

Nỗi buồn trong Liên càng thấm thía hơn khi chứng kiến khung cảnh chợ tàn cùng những kiếp người tàn trong thời khắc ngày tàn đó. Ngày mà phiên chợ xơ xác, trên mặt đất chỉ còn lại vỏ bưởi, bã mía, rác rưởi… Những phế phẩm của một vùng quê nghèo. Đặc biệt là cái dáng lom dom của "những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại lang thang trên mặt đất nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre hay những gì còn sót lại của mấy người bán hàng".

Nỗi buồn trong Liên càng được dấy lên khi màn đêm buông xuống, cả phố huyện chìm trong bóng tối, con người cũng bước ra, sinh hoạt trong bóng tối rồi lại lầm lũi đi vào màn đêm đen đặc. Trong cảm nhận của Liên, buổi đêm với bóng tối thật ghê gớm "tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Đêm tối đối với Liên "quen lắm, chị không sợ nó nữa". "Không sợ nó nữa" nghĩa là đã từng sợ, nhưng giờ đã quen rồi hay Liên đã nhẫn nhục, cam chịu bởi không thể thoát được? Nhưng tâm hồn ấy vẫn khao khát ánh sáng qua việc kiếm tìm vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông, qua việc tìm kiếm những "hột sáng", "khe ánh sáng", "đốm sáng", "vệt sáng" nơi phố huyện.

Ngòi bút nhân hậu của Thạch Lam không muốn dìm mãi người đọc trong cái tăm tối, mòn mỏi, nghèo khổ mà còn tha thiết hướng con người về phía ánh sáng của sự sống để khơi lên niềm khao khát hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhà văn đã phát hiện thêm nhiều cung bậc khác nhau nơi tâm hồn Liên qua việc Liên khao khát đợi chuyến tàu đêm. Liên mong ngóng con tàu từ phương xa, hồi hộp vui sướng khi con tàu đến gần và buồn bã thất vọng khi còn tàu biến mất.

Cuộc sống càng mòn mỏi càng bế tắc thì hình ảnh chuyến tàu đêm càng đem lại cho con người hi vọng. Liên cùng những người dân phố huyện chờ đợi trong tâm trạng khắc khoải để sống trọn vẹn được một ngày. Liên dõi theo con tàu từ phía xa khi trông thấy "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma chơi". Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Đoàn tàu xuất hiện làm cho khung cảnh phố huyện khuấy động lên chút ít, làm không gian mới thực sự là phố huyện chứ không phải muôn đời bị quên lãng. Liên thoáng trông thấy toa hạng trên sang trọng, kền và đồng lấp lánh, tiếng hành khách ồn ào khe khẽ…Đó mới là thế giới của những con người nghèo khổ này ao ước được sống, dù là trong giây lát. Hình ảnh đoàn tàu làm nảy sinh tâm trạng đợi tàu trong chị em Liên, An và nó đã trở thành thói quen, nếu không được trông thấy chuyến tàu đêm đi qua chắc hai chị em không còn nhớ những giây phút sống trong mơ ước, khát khao nữa.

Nếu những người dân nơi đây đợi chuyến tàu để bán thêm ít hàng, để được trông thấy hoạt động cuối cùng của đêm khuya thì với chị em Liên, nhìn chuyến tàu qua là một cách để nhớ về quá khứ tươi đẹp. Con tàu từ Hà Nội về là tia hồi quang nhắc chị em Liên nhớ về một thời "lúc thầy Liên chưa mất việc…được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ". Sống trong hiện tại nhưng chưa bao giờ hai chị em thôi khao khát về quá khứ và dường như con tàu là động lực sống mạnh mẽ nhất cho Liên. Liên chìm trong những hồi tưởng đẹp đẽ đó cho đến khi con tàu chuyển bánh, lại lao vào màn đêm không cùng mang theo ánh mắt tiếng nuối của hai chị em.

Miêu tả nhân vật Liên, Thạch Lam đã nhập thân vào nhân vật, sống cùng nhân vật nên hiểu rõ nỗi niềm sâu kín bên trong của Liên. Nhà văn đã bộc lộ một biệt tài xây dựng nhân vật khi tập trung thể hiện thế giới nội tâm của con người ở những cung bậc cảm xúc tinh tế nhất. Truyện không có cốt truyện cùng thủ pháp đối lập tương phản, sử dụng những đối thoại có xu hướng chuyển thành độc thoại….đã góp phần thể hiện sâu sắc thế giới nội tâm của Liên.

^ HT ^