Hãy đối lại một câu trái nghĩa với câu này:”đất lành chim đậu”
Chúc mừng năm mới nhé!!
Chúc mọi người lun lun học giỏi và mạnh khỏe!!
Cảm ơn mọi người đã giúp đỡ mk trong thời gian qua .....
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Sau ba tháng hè nóng nực, sáng nay mùa thu đã về.
Trời thu trong xanh, cao thăm thẳm, không một gợn mây.
Gió thu mát rượi. Những đêm thu, trăng sao vằng vặc, chúng em được vui chơi, được ca hát trên sân nhà. Yêu quá đi mùa thu ơi! Chuối tiêu trứng cuốc ngọt lịm. Bòng ngọt mọng tép, đi học về ăn mãi không biết chán. Có quả hồng ăn với cốm, thơm quá, ngon quá đi thôi!
Mùa thu này về, em đã trở thành cô nữ sinh lớp ba rồi đấy. Em sẽ cố gắng chăm ngoan học giỏi, làm vui lòng mẹ cha, làm vui lòng thầy, cô giáo.
Mỗi sáng mai, trên đường đi học, nhìn lên bầu trời xanh, em say mê ngắm cánh nhạn mùa thu nối đuôi nhau bay về phương Nam. Em khe khẽ hát lên: "Mùa thu ơi, sông núi đẹp vô cùng!"...
Ánh nắng chói chang của mùa hạ đã khép lại, nhường chỗ cho màu nắng vàng hoe khi mùa thu đến. Cảnh mùa thu quê em thật đẹp, thật thơ mộng.
Biết nói gì với mùa thu khi bầu trời trong veo và xanh thẳm, bao la. Những dải mây mỏng như những chiếc khăn voan vắt ngang bầu trời. Gió thu mát rượi, nhè nhẹ thổi, mang theo hương lúa nếp, hương cốm mới từ các cánh đồng quê. Sau một đêm mưa, trời thu như dịu lại, nắng trở nên vàng hoe. Trăng thu sáng trong vằng vặc. Hoa cúc thêm vàng, cây hồng thêm ửng đỏ, quả bưởi vàng óng căng tròn. Lá vàng bay vào khung cửa sổ, giàn trầu lại xanh trước ngõ, vài quả cam cười chúm chím trên cây. Má các cô gái quê em lại thêm ứng hồng vì mùa thu vội đến.
Ngoài vườn hoa cúc cùng nhiều loài hoa khác cũng rực rỡ sắc màu. Hương thơm ngát hoà quyện với màu sắc rực rỡ làm cuốn hút bao bầy ong bướm bay rập rờn.
Chúng em vui mừng đón đợt Tết Trung thu để múa đèn, rước sư tử và phá cỗ. Nằm mơ em đã thấy ông trăng thu lơ lửng giữa trời. Những dãy núi xa cúi xuống nhìn đồng lúa trổ đòng. Dòng sông trong xanh lững lờ trôi, thuyền buồm tấp nập, ghe xuồng rộn rã trên sông. Những cánh buồm như những cánh chim bay giữa trời thu.
Thật thú vị khi nhìn mùa thu “thay áo mới”. Đẹp thay lúc thu sang. Mùa thu khai trường đế lại trong em sự cảm nhận thật tuyệt vời và bao kỉ niệm đầy vơi.
Ths. Trần Bá Long
Phòng Khoa học – Thông tin – Tư liệu
Là một loại hình nghệ thuật đã được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, tuy nhiên, do Dân ca Nghệ Tĩnh có nguồn gốc rất xa xưa, lại được truyền lại chủ yếu qua dân gian nên loại hình nghệ thuật này chỉ được người dân Việt Nam, kể cả người dân hai tỉnh Nghệ An, Hà tĩnh biết đến nó vì sự đặc sắc của nó chứ không biết nhiều về bản thân loại hình nghệ thuật này. Ngay cái tên của nó là Giặm hay Dặm cũng đang còn được bàn cãi bởi các nhà nghiên cứu nghệ thuật. Nhân dịp Nghệ An, Hà Tĩnh đón nhận quyết định của UNESCO về Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về loại hình nghệ thuật đặc sắc này.
Nói đến Dân ca Nghệ Tĩnh phải nói đến ba thể hát đó là: hát Hò, hát Ví và hát Giặm. Đây là ba thể đặc sắc và điển hình nhất của người việt Nghệ Tĩnh. Bởi nó thể hiện được rõ bản sắc của một vùng quê Bắc Trung Bộ. Tính đặc sắc của nó có thể so sánh với một số thể hát Dân ca của các vùng khác như: hát Xoan, hát Ghẹo ở Phú Thọ, dân ca Quan họ ở Bắc Ninh, hát Lý, hát Hò ở Huế, hát Bài chòi ở Bình Định… Tuy nhiên Hò , Ví, Giặm Nghệ Tĩnh nếu xét về thổ sản của vùng miền thì vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều, chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng: thổ sản của Dân ca Nghệ Tĩnh thì chỉ có hát Ví và hát Giặm, còn Hò là thể hát được Nghệ hóa từ đằng trong ra và đằng ngoài vào. Cũng có ý kiến cho rằng Hò , Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã bám sâu gốc rễ của nhân dân xứ Nghệ hàng bao đời nay và cụm từ Hò, Ví, Giặm là không thể tách rời. Nếu chỉ dựa vào tên gọi để xếp nó vào hàng thổ sản thì không thể thuyết phục. Nói về hát Ví: Ngoài hát Ví Nghệ Tĩnh ra còn có hát Ví của Đồng Bằng Bắc Bộ. Hát Giặm thì có hát giặm của Hà Nam Ninh. Hò thì có Hò Huế, Hò Quảng Bình, Hò Quảng Nam, Hò Quảng Trị, Hò Nam Bộ…
Dân ca Ví, giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam. Loại hình nghệ thuật này phổ biến trong đời sống của các cộng đồng xứ Nghệ, được hát trong hầu hết mọi hoạt động đời thường, từ ru con, dệt vải, trồng lúa... Lời ca của dân ca Ví, giặm ca ngợi những giá trị sâu sắc và truyền thống như sự tôn trọng với các bậc cha mẹ, lòng chung thủy, tận tụy vì người khác cũng như ngợi ca đức tính thật thà và cách cư xử tử tế giữa con người với con người. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng người Việt ở 259 làng, thôn, xóm, khu dân cư của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân địa phương, làm nên bản sắc riêng của văn hóa xứ Nghệ.
Ví, Giặm
Là hai thể hát dân ca có ca từ bằng thơ dân gian cô đọng, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hát nên luôn được trao truyền, kế thừa và sáng tạo. Các chuyên gia ước tính có khoảng 15 điệu Ví, 8 điệu Giặm được gọi tên theo bối cảnh cuộc sống, lao động, nghề nghiệp như Ví phường vải, Ví đò đưa, Giặm ru, Giặm kể…
Theo thống kê năm 2013, tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện vẫn còn 259 làng có thực hành dân ca Ví, giặm, có 75 nhóm dân ca Ví, Giặm đang hoạt động với trên 1.500 thành viên. Qua tìm hiểu và nghiên cứu về tính chất và môi trường không gian diễn xướng dân ca Hò-Ví-Giặm các nhà nghiên cứu tìm thấy các đặc trưng diễn xướng của Ví giặm Nghệ Tĩnh:
Hát Ví
Hát Ví hát giao duyên nam nữ được phổ biến vùng Nghệ Tĩnh, các thể kỷ trước dùng để trao đổi tình cảm giữa đôi trai gái. Vào các đêm trăng sáng thường đi ngắm trăng. Hát theo lối tường thuật ngẫu hứng một câu chuyện nào đó trong quá trình lao động và nông nhàn, trong lối sống thường nhật lâu dần được dân gian hóa.
Hát Ví thường là hát tự do, không có tiết tấu từng khuôn nhịp, người hát có thể co dãn một cách ngẫu hứng. Âm điệu cao thấp ngắn dài có khi còn tuỳ thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc, ít từ hay nhiều từ. Ví thuộc thể ngâm vĩnh, bằng phương pháp phổ thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể...)
Tính biểu cảm của hát Ví tuỳ vào môi trường hoàn cảnh, không gian thời gian và tâm tính của người hát. Âm vực của Ví thường không quá một quãng 8. Tình điệu Ví nghe trang trải mênh mang sâu lắng, bâng khuâng xao xuyến, tha thiết ân tình. Tuy vậy, vẫn có loại Ví ghẹo và Ví mục đồng nghe dí dỏm hài hước, nghịch ngợm hồn nhiên tươi trẻ.
Thể hát Ví: Ví có nhiều điệu như: Ví đò đưa, Ví phường vải, Ví phường cấy, Ví phường võng, Ví phường chè, Ví đồng ruộng, Ví trèo non, Ví mục đồng, Ví chuỗi, Ví ghẹo...
Hát Giặm
Đã có nhiều ý kiến giải thích về tên gọi của hát Giặm. Người thì cho rằng giặm là quãng (quãng đường), người thì nói giặm là giẵm (giẫm chân theo nhịp hát); Theo ngôn ngữ bản địa, giặm là động từ là chen vào hay chêm vào (Giặm mạ, giặm lúa…) như vậy có thể tạm thống nhất là Giặm chứ không phải là Dặm vì hát "Giặm" có nghĩa là ghép vào, xen kẽ với nhau, thường 2 hay 3 người hát đối diện nhau.
Giặm là thể hát nói, bằng thơ ngụ ngôn (thơ / vè 5 chữ), nói cách khác thì Giặm là thơ ngụ ngôn / vè nhật trình được tuyền luật hoá. Khác với Ví, Giặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh phách nhẹ, có nhịp nội nhịp ngoại.Thông thường một bài Giặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu (câu 5 thường điệp lại câu 4), mỗi câu có 5 từ (không kể phụ âm đệm). Tuy vậy, cũng có những bài Giặm/ vè không phân khổ rõ ràng, mà cứ hát một lèo, có khi đến hàng chục hàng trăm câu, và mỗi câu cũng không nhất nhất 5 chữ mà có thể 4 hoặc 6,7 chữ (do lời thơ biến thể).
Giặm rất giàu tính tự sự, tự tình, kể lể khuyên răn, phân trần bày giải. Cũng có loại Giặm dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng và có cả Giặm trữ tình giao duyên. Âm nhạc đi theo thường là phách. Các làn điệu của hát Giặm như: Giặm xẩm, Giặm nối, Giặm vè, Giặm điên, Giặm của quyền, Giặm kể.
Hát Giặm có thể xếp vào thể loại hát Giao duyên. Bởi đây là thể hát có lề lối, tuy không được quy củ cho lắm nhưng hình thức ca hát cũng là đối đáp nam nữ, bên này đối với bên kia. Qua quá trình hát cũng đã có chuyện trao tình trao ngãi và cũng có chuyện nên duyên, nên nghĩa vợ chồng:
Nghe đồn chợ Cầu hơn đỗ
Đồn chợ Trỗ hơn Vưng
Gạo chợ Chế cầm thưng
Bạc chợ Vịnh cầm chừng
Tui với mự ta chung lưng
Tui năm quan tiền kẽm
Mự chục quan tiền Đồng
Bỏ vô gánh vô gồng
Ai chung nữa cũng không
Vô đàng trong ta chạm Gạo
Ra đàng ngoài ta chạm Gạo.
Và khi đã thương nhau thì cũng hẹn hò xe kết:
Khi mô lươn lên rừng mần tổ
Vượn chống Nôốc đi buôn
Ruồi độ gãy cành cơn
Nước đỗ thấm lá Môn
Chuột khoét thủng Hoành Sơn
Anh với em xa ngái
Bạn với mình xa ngái.
Song cũng có khi mối tình lỡ dở, những lời lẽ oán trách cũng tràn ngập trong những câu hát Giặm:
Trước thì mự nói mự thương
Cau tui dành để trên buồng
Trầu tui dành để ngoài nương
Tiền thì buộc chạc trong rương
Lợn thì ục ịch trong chuồng
Giừ thì mự nói mự nỏ thương
Trầu thì rụng cuống ngoài nương
Lợn thì bỏ cám trong truồng
Chọng thì để môốc trong buồng
Bạc tình chi rứa mự
Chi mà bạc tình rứa mự.
Trong lề lối hát Giặm cũng có lệ xưng danh, xưng quê quán:
Em vốn tuổi con rồng
Họ với đức Gia Long
Tên cùng với Chu Công
Làng em ở bên sông
Nhà em ở giữa đồng
Trong vườn có cơn Hồng
Có bể cạn nước trong
Có thiên đài thổ công
Mời anh sang ta nhởi
Xin mời chàng sang nhởi.
Giặm còn để bắt bẻ nhau, bài xích nhau hoặc đấu trí, đấu lời. Đây cũng là hiện tượng đối đáp thường xẩy ra trong hát Giặm. Ngoài loại hát Giặm có đối đáp còn có hát Giặm không có đối đáp như: Giặm ru, Giặm nối, Giặm kể… Giặm ru là Giặm được hát lúc ru con với nhịp điệu chậm rãi và có phần buông lơi, giai điệu buồn buồn, tha thiết; Giặm kể thì thường dùng những lời ca nhằm kể lại những câu chuyện trong làng ngoài xóm; Giặm xẩm là làn điệu Giặm mà những người hát Xẩm thường hay hát. Họ là những người mù, dùng lời ca tiếng hát để kiếm kế sinh nhai. Giặm Xẩm thường kể lể sự tình, than thân trách phận để kêu gọi tình thương đối với đồng loại khi gặp khó khăn trắc trở. Vào thời chiến loạn đất nước bị xâm lược, đô hộ thì Giặm xẩm còn được những người hát Xẩm dùng lời ca tiếng hát của mình kêu gọi nhân dân, kêu gọi đồng bào đứng lên chống giặc, chống ngoại xâm…
Về ca từ
Qua tìm hiểu một số thể hát Dân ca của một số vùng miền cho thấy hầu hết lời văn của nó thường dùng thể thơ Lục bát hoặc Lục bát biến thể chứ ít thấy thể thơ năm từ. Ngược lại ở hát Giặm Nghệ Tĩnh chủ yếu sử dụng thể thơ Ngũ ngôn mỗi câu 5 chữ, mỗi Trổ 5 câu. Câu thứ 5 được láy lại câu thứ 4 và nếu có biến thể thì các khung của trổ hát Giặm cũng được ổn định với quá trình từ câu mở đầu đến câu kết thúc:
Mự nỏ biết tui mô
Tui nỏ biết mự mô
Sóng ngoài Bể dồn vô
Mây rừng xanh kéo lạiMây đại ngàn kéo lại.
Cá biệt trong hát Giặm có dùng thể thơ 7 từ như trong hát Giặm cử a quyền:
Trước lên Đền tui quen cụ Thượ ng
Về chợ Hạ tui quen cụ Đình
Vô Lạc Thiện tui quen cụ Ấm Ninh…
Hay có bài Giặm lại được mở đầu bằng thơ Lục bát: Cực lòng mẹ góa con côi
Đi thì thương tiếc phải ngồi nuôi con
Trăm năm tính chuyện vuông tròn
Đành lòng ở vậy nuôi con thờ chồng.
Song thể thơ chủ đạo của hát Giặm vẫn là thể thơ 5 từ, tuy nhiên số lượng câu thơ trong mỗi khổ hay số từ trong mỗi câu có thể được mở rộng nhưng nguyên tắc vần chân và hiện tượng điệp câu vẫn được bảo lưu:
Têm một quả trầu không
Bỏ vô hộp con Rồng
Đi băng nội băng đồng
Qua năm bảy khúc sông
Nghe tin em đã có chồng
Anh quăng lắc vô bụi
Anh gạt tùa vô bụi
Số lượng câu thơ trong hát Giặm không hạn định, có thể hát hết khổ thơ này đến khổ thơ khác, kết thúc một khổ thơ luôn là câu láy lại. Đó là câu thứ 5 của khổ thơ. Câu thơ này còn có tác dụng là cầu nối sang khổ thơ khác. Bởi vậy một bài Giặm vè hay một bài Giặm nối có thể có độ dài khá lớn. Đây cũng là một trong những yếu tố khác biệt của hát Giặm Nghệ Tĩnh so với một số thể hát của vùng miền khác.
Một số tác phẩm Ví, giặm
Ví giận thương, Hát khuyên, đại thạch, tứ hoa, xẩm thương, xẩm chợ, một nắng hai sương, tình sâu nghĩa nặng, em giữ lời nguyền, khóc cha, cuộc đời nổi trôi, ai cứu chàng, Con cóc, xoay xở, lập lờ, lập loè, đi rao, đèo bòng, khen Thầy tài, to gan, uất ức, bướm say hoa, chồng chềnh, lòng vả lòng sung, Vào hội đông xuân, đứng thẳng người lên, gốc lúa quầng trăng, cha ơi ngồi dậy mà xem, hỡi công nông binh, hò vượt sông...
Hát giặm
Dặm là thể hát nói, bằng thơ ngụ ngôn (thơ / vè 5 chữ), nói cách khác thì dặm là thơ ngụ ngôn / vè nhật trình được tuyền luật hoá. Khác với ví, giặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh phách nhẹ, có nhịp nội nhịp ngoại.Thông thường một bài dặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu (câu 5 thường điệp lại câu 4), mỗi câu có 5 từ (không kể phụ âm đệm). Tuy vậy, cũng có những bài dặm/ vè không phân khổ rõ ràng, mà cứ hát một lèo, có khi đến hàng chục hàng trăm câu, và mỗi câu cũng không nhất nhất 5 chữ mà có thể 4 hoặc 6,7 chữ (do lời thơ biến thể).
Dặm rất giàu tính tự sự, tự tình, kể lể khuyên răn, phân trần bày giải. Cũng có loại dặm dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng và có cả dặm trữ tình giao duyên.
Hát giặm là một thể loại hát nói bằng thơ ngụ ngôn (thơ - vè). Âm nhạc đi theo thường là phách. "Dặm" có nghĩa là ghép vào, xen kẽ với nhau, thường 2 hay 3 người hát đối diện nhau hát.
Các làn điệu của hát dặm như: Dặm xẩm, dặm nối, dặm vè, dặm điên, dặm của quyền, dặm kể. Có các tiết tấu phách mạnh, phách nhẹ, những nhịp trong và ngoài. Các thể loại này rất giàu tính tự sự, kể lể, khuyên răn, phân trần, giãi bày,...thuộc dạng thể thơ năm chữ,cách gieo vần,ngắt nhịp,...
Chao ôi, cảnh buổi sáng đầu xuân thật tuyệt! Nó như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài.
Ông mặt trời lúc này vẫn còn say ngủ trong chiếc chăn mỏng của màn mây ấy thế mà mấy chú chim đã dậy từ bao giờ, hót líu lo trên cành hòa nhịp với loa phóng thanh của hợp tác xã tạo nên một bản nhạc du dương trầm bổng đón chào một ngày xuân mới. Tôi tung tăng chạy nhảy như một con sáo nhỏ ra đầu làng để tận hưởng bầu không khí trong lành, mát mẻ của làng quê. Một lúc sau, phía đằng đông, ông mặt trời thức dậy, vứt bỏ chiếc chăn mỏng, ông vươn vai, ban phát những tia nắng xuân vàng dịu xuống vạn vật. Tôi như nghe thấy tiếng cựa mình của cỏ cây, hoa lá trước sắc xuân. Cây nào cây ấy cũng đều chọn cho mình bộ quần áo đẹp nhất để đón chào xuân mới. Nhìn cảnh quê hương lúc này như một lẵng hoa đầy mầu sắc. Chúng như đang lượn vòng trong các cành cây, như đang nô đùa, nhảy nhót dưới ánh nắng của mùa xuân. Bên lũy tre, cạnh bờ ao, cô gió đánh nhịp cho lá cây vui hát rì rào. Dưới mặt ao, ánh nắng chênh chếch chiếu xuống làm mặt ao lóng la lóng lánh như người ta vừa giát một mẻ vàng mới luyện song. Đứng giữa cánh đồng lúa, tôi như tưởng tượng mình đang lạc vào một thế giới cổ tích. Một mùa xuan đầy sức sống đang về trên quê hương tôi. Quê hương tôi thật đẹp phải không các bạn? Tôi mong ước quê mình mãi đẹp dưới sắc xuân.
Ôi, quê mình vào buổi sáng đầu xuân đẹp quá, đẹp quá đi! Tôi thật sung sướng và tự hào khi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất yêu dấu này. Tôi sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp hơn.
trên trời mây trắng như bông
ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
hỡi cô má đỏ hây hây
đội bông như thể đội mây về làng
Trong bài ca dao này, tác giả đã gợi lên hình ảnh cánh đồng bông và những con người cuộc sống của họ. Để làm được nổi bật hình ảnh tác giả đã sử dụng nghệ thuật so sánh, từ láy và từ trái nghĩa để làm bài ca dao trở nên sinh động. Trong ba câu đầu:
trên trời mây trắng như bông
ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
ở dưới cánh đồng bông trắng như mây
Tác giả đã miêu tả những đám mây bồng bềnh trong gió như những cây bông. Còn ở dưới tác gải đã gợi lên hình ảnh những cây bông đang thả mình vào trong gió như những đám mây. Ý ở đây muốn nói đến một khoảng rộng, khoảng rộng ấy được bao trùm bởi thiên nhiên.
hỡi cô má đỏ hây hây
đội bông như thể đội mây về làng
Trong 2 câu thơ cuối, tác giả muốn nhắc đến cô thôn nữ. Nói về thành quả lao động của con người với thiên nhiên. Hình ảnh được nói lên tâm huyết, cần cù của họ với khuôn mặt rạng rỡ đầy niềm vui .Mây hòa với bông, con người hòa với thiên nhiên, đất trời. Hoa của cây bông có thể làm ra loại vải. Điều đó chứng minh về cây bông không chỉ đpẹ mà còn cho ra những lợi ích và điều đặc biệt mà tác giả nói đến ở đây là công lao, thành quả của những con người lao động.
Chúc bạn học tốt!
tíck cho mik nha
Đoạn kết của truyện, tác giả viết: “Tôi không trả lời mẹ vì tôi muốn khóc quá. Bởi vì nếu nói được với mẹ, tôi sẽ nói ràng: Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy”.
Đây là một kết thúc khá bất ngờ, có hệ quả từ câu hỏi của mẹ: “Con đã nhận ra con chưa” trước đó vốn bao hàm nhiều nghĩa (cũng có thể người mẹ hỏi về người anh được tái hiện trong niềm mong ước của em gái; người anh trong con mắt ngây thơ của mội tài năng chớm nở; hoặc người anh ở ngoài đời so với sự hoàn hảo của tác phẩm nghệ thuật). Hiểu như vậy sẽ cắt nghĩa được các chặng phát triển của trạng thái tâm lí nhẩn vật, từ “giật sững người” chuyển sang “bám chặt lấy tay mẹ”, rồi ngỡ ngàng - hãnh diện - xấu hổ, và cao trào là không trả lời mẹ - muốn khóc, chuyển hóa thành kết quả tự nhận thức trong tâm tưởng: “Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy”.
Sự phát hiện tinh tế, cũng là thành công nghệ thuật của tác giả thể hiện trong đoạn kết này là để cho tình tiết của câu chuyện phát triển một cách tự nhiên nhằm bộc lộ quan niệm rõ ràng về cái đúng, cái sai trong cuộc sống một cách khách quan. Câu nói thầm trong tâm trí của người anh thể hiện sự hối hận chân thành, có tính tất yếu và thuyết phục người đọc.
Mình có đáp án là:
hình như chỉ là
- một chàng dế thanh niên
-đôi càng tôi
tại vì cường tránh với mẫm bóng là tính từ rồi
- những cái vuốt ở chân, ở khoeo thì đúng
danh từ có: Chàng dế, đôi càng, cái vuốt, chân, khoeo
so sánh+ nhân hóa => khiến người đọc người nghe có cái nhìn chân thực hơn, dễ hiểu và dễ hình dung hơn
Ý 1: Xác định được các phép so sánh nhân hoá:
+ So sánh: biển như người khổng lồ; biển như trẻ con.
+ Nhân hoá: Vui, buồn, suy nghĩ, hát, mơ mộng, dịu hiền.
- Ý 2: Nêu được tác dụng:
+ Biển được miêu tả như một con người với nhiều tâm trạng khác nhau.
+ Biển được nhà thơ cảm nhận như những con người cụ thể: khi thì to lớn, hung dữ như người khổng lồ; khi thì nhỏ bé hiền lành dễ thương, đáng yêu như trẻ con.
ð Nhờ các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá đoạn thơ đã gợi tả thật rõ, thật cụ thể màu sắc, ánh sáng theo thời tiết, thời gian; tạo nên những bức tranh sống động về biển.
xin hãy k cho mik nhá
Là một cô bé nên ít khi tôi quan tâm đến thể thao mà chỉ thích xem chương trình nấu ăn và thời trang. Nhưng dịp dó, Sea-Game đang diễn ra rất sôi nổi. Tối nào trong bữa cơm, gia đình tôi cũng xem các trận thi đấu và cổ vũ rất nhiệt tình cho đội chủ nhà Việt Nam. Nhờ đó, tôi được chiêm ngưỡng hình ảnh một lực sĩ đang cử tạ rất tuyệt.
Cử tạ là bộ môn thi đấu ngày càng được nhiều người quan tâm. Không chỉ nam giới mà bây giờ có nhiều cô gái cũng tham gia nên càng tạo thêm tính hấp dẫn. Vì không mấy khi xem thể thao nên tôi chẳng biết vận động viên nào cả. Nghe họ nói, tôi biết lực sĩ chuẩn bị thi đấu là vận động viên Hoàng Anh Tuấn, một lực sĩ đang nổi tiếng ở nước nhà. Nhìn anh thật ấn tượng.
Không cao lớn lắm nhưng anh trông thật khỏe mạnh với những bắp thịt săn chắc. Hai cổ tay và hai đầu gối của anh được quấn nhưng dải băng. Đặc biệt là gương mặt với đôi lông mày rậm toát lên vẻ cương nghị. Nhìn anh thật tự tin bước vào sàn đấu. Anh hít thở một hơi thật dài, bình tĩnh cúi xuống. Màn thi đấu đã thực sự bắt đầu rồi, cả nhà tôi ai cũng chờ đợi. Còn tôi, bỗng dưng thấy hồi hộp lạ và thầm mong lực sĩ Anh Tuấn sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Một tiếng chuông vang lên, lực sĩ vào cuộc. Gương mặt cương nghị của anh bộc lộ đầy sự quyết tâm. Hai đầu lông mày kéo lại gần nhau hơn, môi anh mím chặt lại, trên trán những đường gân nổi lên mỗi lúc một rõ thể hiện sức nặng của quả tạ. Hai cánh tay của anh nom săn chắc hơn bao giờ hết. Phần cơ nổi lên cuồn cuộn tựa như được làm bằng thép nung. Quan trọng nhất là đôi chân của người lực sĩ. Hai chân trụ vững chải như dính liền trên mặt đất, từ từ nâng lên cao, đưa người và quả tạ đến đích. Hai cánh tay anh thẳng, giang rộng hình chữ V khiến tôi liên tưởng đến biểu tượng của đất nước Việt Nam và sự chiến thắng. Khuôn mặt người lực sĩ mỗi lúc đỏ thêm lên theo sức nặng của quả tạ. Có một tích tắc, đôi tay anh run run như làm rơi quả tạ xuống đất khiên khán giả kêu ồ lên. Mắt tôi không rời màn hình, tay tôi thì đã đặt lên ngực trái từ bao giờ. Có lẽ tôi còn hồi hộp hơn mọi người nữa. Nhưng thật may, sự cổ vũ nhiệt tình của hàng triệu con tim nơi quê nhà đã tiếp thêm sức mạnh cho anh. Đôi tay, bàn chân anh cứng cáp lạ thường. Dường như đã chuẩn bị sẵn sàng, anh nhanh nhẹn xoạc chân, hai tay đưa quả tạ lên cao đầy cương quyết. Tiếng hô ngắn nhưng vang của anh như một nốt nhạc cao vút, kết thúc màn thi đầy ấn tượng và gay cấn. Sau vài giây, anh hạ tay, đặt quá tạ xuống nền một cách bình thản. Trên trán anh đã lấm tấm những giọt mồ hôi nhưng nụ cười rạng rỡ trên môi khiến khán giả nức lòng. Anh cúi người, vẫy tay chào khán giả. Đôi mắt anh sáng lên niềm tin chiến thắng.
Người lực sĩ lui vào bên trong rồi mà hình ảnh của anh vẫn hiện lên rõ rệt trong tôi. Trước đây tôi vẫn cho rằng thể thao có gì hay chứ, thật khô khan và buồn tẻ. Nhưng hôm nay qua cuộc thi đấu này mà tôi mới vỡ lẽ, thể thao thật tuyệt vời. Nó cũng chứa đựng rất nhiều giá trị, sức khỏe, đoàn kết, hiểu biết và kết tinh truyền thông, tinh thần dân tộc... Thể thao đưa chúng ta đến gần nhau và đến gần với thế giới hơn. Chẳng vì thế mà đất nước ta ngày càng được bạn bè quốc tế coi trọng.
Sáng chủ nhật vừa rồi, trên ti vi có phát sóng một chương trình thi đấu thể dục thể thao, được tổ chức tại nhà thi đấu Văn Tiểu học - Thành phố Hồ Chí Minh. Hôm đó có rất nhiều môn thi hấp dẫn như Vovinara, vật tự do, Karate, bóng bàn, bóng chuyền… nhưng em thích nhất vẫn là môn cử tạ. Nổi bật hơn cả, thi đấu hết mình hơn cả chính là vận động viên cửa tạ Thạch Kim Tuấn đã xứng đáng đoạt Huy chương vàng trong cuộc thi này.
Sau lời giới thiệu của ban tổ chức, lực sĩ Kim Tuấn bước ra sàn đấu giữa tiếng vỗ tay cổ vũ nồng nhiệt của khán giả. Anh rất trẻ, chỉ độ khoảng hai lăm, hai sáu tuổi thôi. Nhưng trong anh to khỏe và nặng kí lắm. Mái tóc đen hớt cao làm tăng thêm vẻ cương nghị của gương mặt chữ điền. Đôi mắt đen sâu và sáng. Lông mày rậm . Anh đang khoác áo đội tuyển Việt Nam . An luôn nở nụ cười thân thiện rất dễ gần. Người
Lực sĩ Kim Tuấn được gọi là đẹp trai, ưa nhìn, có một thân hình trong giới thể thao ccử tạ gọi là cân đối . Anh cao một mét bảy mươi hai , nặng bảy mươi hai kí lô gam. Vai rộng, ngực nở vòng cung, chân tay nổi bắp thịt cuồn cuộn trông mới khỏe mạnh làm sao! Nước da nâu bóng khiến cho anh trông giống như một bức tượng đồng đen sừng sững. Nhìn toàn thân hình người lực sĩ thì chắc hẳn mọi người đều thích và ao ước có được cái thân hình ấy. Một vẻ đẹp cường tráng và như một người mẫu về tầm vóc, được đúc nặn một cách hoàn hảo. Một vẻ đẹp do chăm chỉ luyện tập thể dục thể thao mà có.
Bước vào nơi thi đấu , Lúc này , lực sĩ mặc bộ quần áo lực sĩ màu xanh lam bó sát người và làm vài động tác khởi động. Bắp thịt nổi lên, chúng chạy và hiện dần quanh cơ thể . Anh Kim Tuấn như một tượng đồng rắn chắc đang hiện ra trước mắt em. Lực sĩ Kim Tuấn khẽ nghiêng mình cúi chào khán giả . Cả hai khán đài vỗ tay vang dội, cổ động cho anh. Anh nở nụ cười thật tươi , hít một hơi thạt sâu, thật căng. Nụ cười tự tin vào chiến thắng. Rồi anh Kim Tuấn bắt đầu bài thi đấu của mình. Quả tạ để ngang trước mặt, đó là hai vòng tròn to luồn vào đoạn sắt tròn nhẵn bóng. Anh choãi chân, lấy thế đứng vững vàng rồi cúi xuống nâng tạ. Vài giây trôi qua, cả ngàn ánh mắt hồi hộp theo dõi từng động tác của anh. Bất ngờ, anh nâng bổng hại quả tạ sắt nặng tám mươi kí lô giơ cao quá đầu một cách nhẹ nhàng giữa tiếng reo hò khen ngợi và tiếng hoan hô như sấm động. Một số khán giả ùa lên chúc mừng và tặng anh những bó hoa tươi thắm. Gương mặt lực sĩ rạng rỡ một niềm hạnh phúc.
Có được thành công hôm nay, chắc chắn anh Kim Tuấn đã phải trải qua một quá trình khổ luyện lâu lài. Ngắm nhìn lực sĩ Kim Tuấn , em ao ước ngày mai lớn lên, em cũng sẽ có được một thân hình và một sức mạnh như thế. Điều đó chẳng dễ dàng gì nhưng ông cha ta đã dạy: "Có chí thì nên".
E èm . Để tui . Đất lành chim đậu . chim chưa đậu đã nhậu mất chim . He he . Câu lầy nhất năm
Hãy đối lại một câu trái nghĩa với câu này:”đất lành chim đậu”
Đối lại :
Đất giữ chim đi .
:)
Chúc mừng năm mới !