K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 tháng 4 2021

Pháp mở cuộc tấn công Viêt Bắc vào thu - đông 1947 nhằm :

A, kết thúc chiến tranh trong danh dự .

B, giành quyền chủ đông chiếm lược đã mất .

C, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta .

D, Muốn giải quyết mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán quân 

 

1 tháng 4 2021

C.

1 tháng 4 2021

Đáp án: C

1 tháng 4 2021

Đap an C

1 tháng 4 2021

Sự kết cấu của pháp với trung hoa dân quốc được biểu hiện bằng sự kiện nào ?

A, Pháp thông qua kế hoạch Rơ - ve .

B, Lập chính phủ Liên hiệp kháng chiến .

C, Hiếp ước Hoa - Pháp (28/2/1946 ) .

D, Pháp mở cuộc tấn công ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ .

1 tháng 4 2021

Đáp án: C

haizz ko tìm đc bài nào ngắn nên cố chép nha ;-;

1.Tầm vóc lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là một trong những cuộc cách mạng điển hình nhất trong lịch sử thế giới hiện đại ở thế kỷ XX, chỉ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, năm 1917. Thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Và minh chứng: chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết lý luận khoa học, từ lý tưởng và mục tiêu cách mạng đã trở thành một chế độ xã hội kiểu mới.

Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam được dẫn dắt bởi thiên tài tư tưởng và tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng cách mạng chân chính do Người sáng lập và rèn luyện đã đưa dân tộc Việt Nam tới kỷ nguyên độc lập, tự do, mở ra thời đại mới cho sự phát triển của dân tộc ta. Đó là Thời đại Hồ Chí Minh - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành quy luật phát triển của Việt Nam, quy luật gắn liền giải phóng dân tộc với phát triển dân tộc, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động cho thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức, thúc đẩy phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước phụ thuộc và thuộc địa, mở ra bước ngoặt lịch sử đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, thực hiện quyền tự quyết dân tộc trên con đường phát triển của mình.

Tầm vóc lịch sử của Cách mạng Tháng Tám, không chỉ làm thay đổi cuộc sống, số phận của nhân dân ta, xóa bỏ ách thống trị trong 80 năm của đế quốc thực dân và chế độ phong kiến, đưa nhân dân ta ra khỏi cảnh lầm than nô lệ, tiến tới tự do và làm chủ mà còn mở ra triển vọng tốt đẹp nhất trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Đây là cuộc hồi sinh vĩ đại của 20 triệu dân ta, xác nhận tính chính xác đến kỳ diệu dự báo thiên tài của Hồ Chí Minh1 và từ đó đến nay - 75 năm qua, dân tộc Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hiểm nguy, lần lượt đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, kiên trì đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để tạo nên Thế và Lực của cách mạng Việt Nam ngày nay. Cơ đồ và sự nghiệp của Việt Nam qua ba phần tư thế kỷ nay, cũng là 75 năm liên tục Đảng cầm quyền, với gần năm triệu đảng viên trong gần 100 triệu dân đang vững bước trên con đường lớn của lịch sử vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tinh thần và sức sống của Cách mạng Tháng Tám như ngọn lửa bất diệt soi sáng hành trình lịch sử của dân tộc ta đi tới tương lai với định hướng giá trị lớn nhất “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, khát vọng và mục tiêu cao cả nhất “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” của sự phát triển Việt Nam, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

2. Sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám - Tầm nhìn - quyết sách và hành động

Đánh giá đúng sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám cần nhìn nhận sự vận động đó trong cả một quá trình. Cách mạng nổ ra và giành thắng lợi trên toàn quốc trong vòng hai tuần, nhưng trên thực tế, Đảng đã trải qua một quá trình chuẩn bị trong 15 năm, từ khi Đảng ra đời. Chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 03/02/1930 (Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam), nêu rõ: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Về phương diện chính trị, xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ Công Nông Binh. Tổ chức ra quân đội công nông”2. Đồng thời, xác định: đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản, làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội, giải phóng con người. Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã nhìn thấu suốt mục tiêu, triển vọng lâu dài của cách mạng Việt Nam là đi tới xã hội cộng sản, từ đó xác định đúng nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể, chủ yếu, trước mắt của cách mạng là “đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.

Chính cương, sách lược vắn tắt, xác định rõ: lực lượng cách mạng phải đoàn kết công nhân, nông dân; trong đó, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo. Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: khẳng định con đường bạo lực cách mạng “không khi nào nhân nhượng một chút lợi ích gì của Công Nông mà đi vào đường thỏa hiệp”3; phải phát huy tinh thần tự lực, tự cường đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Về vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”4.

Từ khi Đảng ra đời đến khi xuất hiện cao trào Tổng khởi nghĩa toàn quốc, giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân ta qua các phong trào và cao trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp, vượt qua những cuộc khủng bố, đàn áp của đế quốc, thực dân để phát triển lực lượng cách mạng trong quần chúng, không ngừng củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng; căn cứ vào tình hình biến đổi của thực tiễn, kịp thời điều chỉnh chủ trương, đường lối và nhiệm vụ cách mạng, nhưng luôn nhất quán về mục tiêu và phương pháp cách mạng, về chiến lược đại đoàn kết. Nó như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt mà Chính cương, sách lược do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã nêu ra và cũng được thể hiện trong “Luận cương chính trị” của Đảng (tháng 10/1930). Nổi bật là: phát động và lãnh đạo cao trào 1936 - 1939, đây là một cuộc tổng diễn tập cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ tiền đề và điều kiện ấy, phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo và đi tới cao trào 1939 - 1945 như một bước ngoặt lớn, hệ trọng và quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 12/3/1945 “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”

Từ năm 1940 - 1945, tình hình quốc tế và trong nước biến chuyển sôi động, nhanh chóng, xuất hiện không chỉ thời cơ thuận lợi mà cả những thách thức, nguy cơ đối với cách mạng nước ta. Trong bối cảnh ấy, Nguyễn Ái Quốc với sự mẫn cảm đặc biệt trong phân tích, đánh giá tình hình, dự báo xu thế và triển vọng của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta đã mau chóng đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời. Đây là thời kỳ thể hiện nổi bật nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, sáng suốt của Đảng gắn liền mật thiết với tầm nhìn xa trông rộng, trí tuệ và mưu lược, sáng tạo và bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - một thiên tài tư tưởng và tổ chức của Đảng, linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt là từ khi Người về nước sau cuộc hành trình lịch sử 30 năm tìm đường cứu nước, cứu dân5, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam cùng với Bộ Tham mưu chiến lược của Đảng. Nổi bật là: Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) ở Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì để hoàn chỉnh chủ trương mới của Đảng, kịp thời chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Hội nghị Trung ương 8 còn xác định vấn đề chính quyền mà tính chất của chính quyền là “toàn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”, đồng thời tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chú trọng công tác xây dựng Đảng, nhất là vấn đề cán bộ. Hướng mọi hoạt động của Đảng vào khâu trung tâm Cứu quốc6. Sau Hội nghị này, hàng loạt chỉ thị và quyết sách của lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Trung ương đã hình thành và được thực hiện nhanh chóng tại căn cứ địa cách mạng. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân như là Cương lĩnh quân sự của Đảng “Chính trị trọng hơn quân sự, người trước súng sau. Có dân rồi sẽ có súng”. Quân đội cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ. Nhân dân là nền tảng của Quân đội. Người cùng Trung ương quyết định kịp thời hoãn lại chủ trương phát động chiến tranh du kích của Liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng vì tình hình chưa chín muồi. Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng ngay sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp ngày 09/3/1945 “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; ngày 15/3/1945 Tổng bộ Việt Minh phát Hịch kháng Nhật cứu nước. Hội nghị quân sự Bắc Kỳ từ ngày 15 - 20/4/1945, quyết định hợp nhất Cứu quốc quân với Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân và chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở các địa phương. Đó là hình thức đầu tiên của chính phủ.

Điểm nút, đỉnh điểm của cao trào cách mạng 1939 - 1945 là sự kiện triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và triệu tập Quốc dân đại hội Tân Trào. Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 13, 14 và 15/8/1945) quyết định: phải kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa toàn quốc, phải giành chính quyền trước khi quân đồng minh kéo vào nước ta và thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do Tổng Bí thư Trường Chinh phụ trách, ban bố Quân lệnh số 1 ra lệnh khởi nghĩa. Khi được tin Nhật đầu hàng đồng minh, Hồ Chí Minh đã rút ngắn Hội nghị Đảng và triệu tập ngay Quốc dân đại hội (ngày 16 và 17/8/1945), thông qua 10 chính sách của Việt Minh, lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam như một Chính phủ lâm thời, làm lễ tuyên thệ, thông qua Quốc kỳ, Quốc ca. Quốc dân đại hội đã hoàn thành nhiệm vụ như một Quốc hội dân cử. Ngay sau Đại hội, Người có thư kêu gọi toàn quốc đồng bào làm tổng khởi nghĩa “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy. Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”7. Với những quyết định lịch sử đó, toàn quốc đã nhất tề hành động: ngày 19/8, Hà Nội khởi nghĩa, ngày 23/8 ở Huế, ngày 25/8 ở Sài Gòn. Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Ngày 02/9/1945, tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, Việt Nam tuyên bố độc lập; chế độ thực dân hơn 80 năm, chế độ phong kiến hàng nghìn năm đã bị lật nhào, chính quyền cách mạng thuộc về nhân dân.

Những nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng và những quyết sách sáng suốt, mau lẹ của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ở những thời điểm bước ngoặt cho thấy sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tiến trình lịch sử dẫn đến Cách mạng Tháng Tám cũng như trong giờ phút quyết định lãnh đạo, chỉ đạo thành công Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng gắn liền với thiên tài tư tưởng và tổ chức của Hồ Chí Minh trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám để lại những bài học kinh nghiệm quý cho cách mạng Việt Nam, cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển dân tộc, minh chứng cho giá trị bền vững của tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh và Đảng ta.

3. Mấy khái quát lý luận từ thực tiễn Cách mạng Tháng Tám

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; có đường lối đúng, có phương pháp cách mạng khoa học, có sách lược và biện pháp linh hoạt. Giữ vững phương hướng chính trị của Đảng, chuyển hướng kịp thời phù hợp với hoàn cảnh, nhất là trước những bước ngoặt lớn, đón kịp tình thế và thời cơ cách mạng. Giải quyết thành công mối quan hệ dân tộc và giai cấp trên lập trường giai cấp công nhân, giữa thời - thế và lực, giữa thiên thời - địa lợi và nhân hòa, lấy nhân hòa làm gốc. Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thực hành xuất sắc những tư tưởng kinh điển Mác xít về khoa học và nghệ thuật cách mạng, trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, nhất là chỉ dẫn của V.I. Lênin: “Phân tích cụ thể một tình hình cụ thể - đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác”; “Chân lý là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo”, phải “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đó là bài học lớn của cách mạng Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết thành lý luận.

Đảng ta và Bác Hồ đã nhận thức đúng và vận dụng sáng tạo nghệ thuật thắng từng bước, chuẩn bị lực lượng, gây dựng phong trào, thúc đẩy tới cao trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945, tận dụng, đón kịp thời cơ, vượt qua thách thức để giành thắng lợi quyết định và hoàn toàn. Nhìn thấu suốt mục tiêu và con đường, biết điều chỉnh chính xác nhiệm vụ ở mỗi thời kỳ, thay đổi khẩu hiệu và sách lược tranh đấu, tranh thủ tối đa các lực lượng cách mạng trong nước và quốc tế bằng phương pháp, biện pháp thích hợp. Thời điểm bùng nổ và chín muồi cho những khởi sự lịch sử vì vận mệnh của dân tộc, cách mạng diễn ra với gia tốc cực lớn “một ngày bằng 20 năm” nên phải chớp lấy thời cơ. Chậm trễ hoặc bỏ lỡ là có tội với lịch sử, với dân tộc.

Kết hợp chính trị với quân sự, vận dụng tư tưởng bạo lực cách mạng hết sức sáng tạo, bằng sức mạnh tổng hợp, phát huy cao độ ý thức và tinh thần dân tộc, khát vọng độc lập, tự do của nhân dân. Chiến lược đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc và tổ chức Mặt trận trong các cao trào cách mạng, nhất là mốc lịch sử 1941 - 1945 đã tạo nên động lực to lớn cho cách mạng thắng lợi. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi nhờ có lòng dũng cảm, hy sinh, lòng trung thành của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và của toàn dân.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Mặt trận, xây dựng lực lượng vũ trang và giáo dục, tuyên truyền, vận động nhân dân là những nhiệm vụ trọng yếu được Đảng ta và Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, gây dựng, phát triển, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình cách mạng đặt ra. Đó là bài học lớn của Đảng, của cách mạng Việt Nam.

Những quyết định lịch sử tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, của Quốc dân đại hội Tân Trào, việc thành lập chính phủ lâm thời trước khi tuyên bố độc lập là hình thái sáng tạo độc đáo của Cách mạng Tháng Tám, làm phong phú lý luận và thực tiễn cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đặc biệt là, quyết tâm giành cho được độc lập, thành lập được chính phủ trước khi quân đồng minh kéo vào Việt Nam cũng như sau thắng lợi của cách mạng, Đảng mới cầm quyền được hai tháng đã kịp thời rút vào bí mật (11/1945) với sách lược táo bạo “Tuyên bố giải tán Đảng” để đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, trước hết,… là thực tiễn chính trị cho thấy không chỉ năng lực mà còn là bản lĩnh của Đảng ta, của Hồ Chí Minh.

Những bài học kinh nghiệm có tầm tư tưởng lý luận đó được rút ra từ thực tiễn Cách mạng Tháng Tám mãi còn giá trị và ý nghĩa sâu sắc về giành và giữ chính quyền, về giải phóng để phát triển dân tộc, để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đối với tiến trình phát triển của dân tộc ta. Những bài học đó vẫn còn tỏa sáng trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập của Việt Nam hiện nay.

1 tháng 4 2021

Nguyên nhân cơ bản quyết định thành công của cách mạng tháng 8 năm 1945 là :

A, Hoàn cảnh quốc tế thuận lợi .

B, Khối liên minh công nông vững chắc .

C, Truyền thống đấu tranh kiên cường của dân tộc .

D, Có sự lãnh đạo kịp thời  , sáng tạo  của Đảng cộng sản Việt Nam . 

1 tháng 4 2021

Nguyên nhân cơ bản quyết định thành công của cách mạng tháng 8 năm 1945 là :

A, Hoàn cảnh quốc tế thuận lợi .

B, Khối liên minh công nông vững chắc .

C, Truyền thống đấu tranh kiên cường của dân tộc .

D, Có sự lãnh đạo kịp thời  , sáng tạo  của Đảng cộng sản Việt Nam . 

 

 

 

1 tháng 4 2021

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng có ý nghĩa như thế nào ? 

A,Như 1 đại hội thành lập đảng .

B,Bầu được ban chấp hành trung ương đảng .

C,Biểu dương lực lượng 3 nước Đông Dương .

D, Là mốc đánh dâu sự trưởng thành của Đảng .

Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Pháp vẫn chuẩn bị xâm lược nước ta.

+  Tiến công các phòng tuyến của ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

+ Tháng 11/1946, Pháp khiêu khích ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn.

+ Ở Hà Nội, Pháp nổ súng, đốt nhà Thông tin, chiếm đóng Bộ tài chính, tàn sát đẫm máu ở phố hàng Bún, Yên Ninh.

- Ngày 18/12/1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu để Pháp giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không, chậm nhất sáng 20/12/1946, Pháp sẽ chuyển sang hành động.

=> Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường Trung ương Đảng tại Vạn Phúc - Hà Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến.

=> Như vậy, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ là do thực dân Pháo ngày càng trắng trợn phá hoại Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946).

1 tháng 4 2021

Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xảy ra trong hoàn cảnh:

- Thực dân Pháp bội ước:

+ Sau Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, Pháp khiêu khích ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn.

+ Tại Hà Nội: thực dân Pháp liên tiếp gây xung đột vũ trang.

+ Ngày 18-12-1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng.

- Ban thường vụ Trung Ương Đảng quyết định phát động toàn quốc khán chiến (19-12-1926)

- Tối 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

=> Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ.

1 tháng 4 2021

- Nội dung của đường lối kháng chiến là: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế.

Kháng chiến toàn dân: xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Có lực lượng toàn dân, tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.

Kháng chiến toàn diện: do địch đánh ta toàn diện nên ta phải chống lại chúng toàn diện. Cuộc kháng chiến của ta bao gồm cuộc đấu tranh trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế… nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp. Đồng thời, ta vừa “kháng chiến” vừa “kiến quốc”, tức là xây dựng chế độ mới nên phải kháng chiến toàn diện.

Kháng chiến lâu dài: so sánh lực lượng lúc đầu giữa ta và địch chênh lệch, địch mạnh hơn ta về nhiều mặt, ta chỉ hơn địch về tinh thần và có chính nghĩa. Do đó, phải có thời gian để chuyển hóa lực lượng làm cho địch yếu dần, phát triển lực lượng của ta, tiến lên đánh bạo kẻ thù.

 

 

Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: mặc dù ta rất coi trọng những thuận lợi và sự giúp đỡ của bên ngoài, nhưng bao giờ cũng theo đúng phương châm kháng chiến của ta là tự lực cánh sinh, vì bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải do sự nghiệp của bản thân quần chúng, sự giúp đỡ bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ thêm vào.

 

1 tháng 4 2021

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Để giải uyết tình hình “thù trong, giặc ngoài” Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng linh hoạt, khôn khéo, kịp thời nhiều biện pháp. Nhưng một số phần tử phản động đã vu cáo, tuyên truyền xuyên tạc, là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh bán nước, sợ Pháp thông qua việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện nước Pháp ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 (ảnh tư liệu)
Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại diện nước Pháp ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 (ảnh tư liệu)
Để thấy được trí tuệ, bản lĩnh tuyệt vời của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua việc ký Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước với Pháp chúng ta cần lần lượt trả lời hai câu hỏi sau: một là, tại sao chúng ta lại phải ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 với Pháp; hai là ý nghĩa của việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9 đối với cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, tại sao chúng ta lại phải ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9/1946 với Pháp? 
Sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945, thực dân Pháp mất quyền cai trị Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi Nhật đầu hàng khối Đồng Minh, Việt Minh chớp thời cơ giành chính quyền từ tay Đế quốc Việt Nam được Đế quốc Nhật Bản bảo hộ, nhanh chóng kiểm soát đất nước, và thành lập chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1946.
Theo thỏa thuận của ba cường quốc Đồng Minh là Trung Quốc, Anh, Hoa Kỳ thì 20 vạn quân của quân đội Trung Hoa Dân Quốc sẽ tiến vào miền Bắc Việt Nam để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Đế quốc Nhật Bản. Ở miền Nam Việt Nam, quân Anh tiến vào với nhiệm vụ tương tự. 
Rạng ngày 23 tháng 9 năm 1945, người Pháp, dưới sự giúp đỡ của quân đội Anh, đã dùng vũ lực buộc Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ phải giải tán, giao lại chính quyền cho người Pháp. Trước tình hình đó và trên cơ sở phân tích kẻ thù Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động nhân dân tiến hành đánh Pháp ở Miền Nam. Từ đó, làm thất bại âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp. Quân Pháp bị giam châm và chịu nhiều thiệt hại tại Nam bộ. Còn tại Miền Bắc, với những chủ trương và biện pháp cứng rắn, mền rẻo mà linh hoạt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm thất bại âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ” (tiêu diệt Đảng Cộng sản, lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh” của quân Tưởng. 
Như vậy, cả thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch đều không thực hiện được ý đồ ban đầu của chúng. Để giải quyết tình hình trên, người Pháp cũng đã thương lượng với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc để đưa quân đội xâm nhập Bắc Việt Nam theo lệnh của phe Đồng Minh. Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết. Về cơ bản, hiệp ước này cho phép quân đội Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam thay thế cho quân Trung Hoa Dân Quốc để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Đổi lại, Pháp cũng đã trả lại các tô giới của mình trên đất Trung Quốc cho chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch và nhượng cho Trung Quốc một số đặc quyền về kinh tế và chính trị.
Hiệp ước Pháp - Hoa cũng đặt ra cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sự lựa chọn “khắc nghiệt”, hoặc là cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc là hòa hoãn, nhân nhượng với chúng để tránh tình trạng cùng một lúc phải đối phó với  nhiều kẻ thù và tranh thủ được thời gian hòa hoãn, tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng cách mạng. Ở thời điểm ấy, nếu cầm vũ khí chiến đấu chống lại quân Pháp, chúng ta có nguy cơ phải đối đầu với 20 vạn quân Tưởng còn hiện diện ở miền Bắc cùng bè lũ phản động do chúng dung dưỡng, trong khi thế và lực của ta còn non yếu. Với nhãn quan chính trị sắc sảo và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình, khi cả hai đối phương đều cần đến phía Việt Nam để tìm một giải pháp có thể chấp nhận, Đảng mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến một quyết định là thương lượng có điều kiện với thực dân Pháp, bằng việc ký với chúng Hiệp định Sơ bộ 6/3/1945:
Nội dung của Hiệp định bao gồm các điểm chính sau đây: 
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế cho 200.000 quân Trung Hoa Quốc dân đảng để làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân.
Pháp đồng ý thực hiện trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ về việc tái thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hai bên thực hiện ngưng bắn, giữ nguyên quân đội tại vị trí hiện thời để đàm phán về chế độ tương lai của Đông Dương, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước ngoài và những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
Quân đội Pháp có tránh nhiệm hỗ trợ và huấn luyện cho Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tuy hiệp định đã được ký kết, buộc phải thừa nhận tư cách pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng thực dân Pháp vẫn muốn chia cắt 2 miền Việt Nam và bật đèn xanh cho các hành động quân sự nhằm tái chiếm Đông Dương. Để tránh nguy cơ chiến tranh trước mắt, thực hiện chủ trương sử dụng biện pháp ngoại giao là chính để có thời gian củng cố lực lượng, chúng ta đã rất kiên trì tiến hành các biện pháp ngoại giao thông qua những lần Hội nghị Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau) kéo dài từ ngày 6/7 đến 10/9/1946 và đi đến ký kết Tạm ước Việt - Pháp ngày 14/991946.
Thứ hai, Ý nghĩa của việc ký Hiệp định sơ bộ 6/3 và tạm ước 14/9/1946 đối với cách mạng Việt Nam.
Hiệp ước Sơ bộ đã tỏ rõ tầm nhìn, tư duy chiến lược sắc bén của Đảng ta về vận dụng điều kiện thực tiễn khách quan để chuyển hóa tình thế cách mạng. Trước mắt, với bản Hiệp định này, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chỗ bị gạt ra ngoài thỏa thuận Pháp - Hoa, trở thành một bên chủ thể quyết định đến việc thực hiện các điều khoản thay quân trong Hiệp ước Trùng Khánh, để kết thúc về mặt pháp lý vai trò của quân Tưởng tại Việt Nam, theo quy định của Hội nghị Pốt-xđam. Đây là quyết định “nhất cử lưỡng tiện”, vừa tránh phải đối đầu với Pháp trong điều kiện bất lợi cả về thế và lực, vừa mượn tay Pháp đuổi 20 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi. Đó là đòn tiến công ngoại giao hết sức chủ động, sáng tạo, nhằm phân hóa kẻ thù, thúc đẩy chúng tự loại trừ lẫn nhau, tạo thuận lợi để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Về mặt lịch sử, Hiệp định Sơ bộ ngày 06-3 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp. Theo lôgíc đó, Hiệp định Sơ bộ đã chứng tỏ rằng: Việt Nam là một quốc gia sánh ngang hàng với Pháp, không còn là thuộc địa của Pháp và càng không cần đến sự bảo hộ của Pháp
Về mặt quốc tế, ta bày tỏ cho thế giới thấy thiện ý của Việt Nam là luôn luôn theo đuổi một giải pháp hòa bình, bằng mọi cách tránh bạo lực, đổ máu không đáng có với quân Pháp. Làm cho nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới qua đó hiểu biết sâu hơn về tình hình Việt Nam, về Chính phủ Hồ Chí Minh. Đồng thời củng cố vững chắc về mặt pháp lý Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đối với trong nước, bằng việc ký hiệp định, ta hạn chế được rất nhiều kẻ thù của cách mạng (quân Tưởng và bọn tay sai, quân Anh, Nhật). 
Đặc biệt, chúng ta đã tạo ra tình thế hòa bình để củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, thi hành ráo riết các biện pháp nhằm xây dựng chế độ mới, trong đó tập trung diệt giặc đói và giặc dốt thành công. Khối đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Chính quyền nhà nước được củng cố, như ban hành Hiến pháp 1946, thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Lực lượng vũ trang được đẩy mạnh xây dựng, quân đội quốc gia chính thức được thành lập, từ 5.000 quân lúc Cách mạng tháng Tám mới thành công đã phát triển lên 8 vạn, du kích tự vệ tới gần 1 triệu, các ngành quân nhu, quân giới, quân y được thành lập.
Như vậy, tuy việc ký Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước này chưa làm thỏa mãn ý nguyện của Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam, nhưng đó thật sự là sự tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình thế lúc bấy giờ. Sự mềm dẻo trong sách lược, cứng rắn trên nguyên tắc, Hiệp định Sơ bộ là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để đổi lấy thời gian, biến thời gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với kẻ thù chính là thực dân Pháp khi chúng không có lực lượng Đồng minh tại chỗ hỗ trợ. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch về sự nhân nhượng có nguyên tắc. Việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9/1946 thể hiện sự nhạy bén, tư duy sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở để chúng ta có thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai chứ không phải tư tưởng “sợ Pháp” hay đầu hàng thực dân Pháp như một số phần tử phản động đang ra sức xuyên tạc, vu cáo nhằm hạ thấp vai trò của Đảng, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

1 tháng 4 2021

dài qué