K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

16 tháng 3

 Nguyễn Bính, một nhà thơ nổi tiếng với phong cách thơ mộc mạc, gần gũi và thấm đẫm hồn quê hương. Trong tác phẩm "Chim Thêu", ông đã khéo léo sử dụng hình ảnh con chim và nghệ thuật thêu thùa để truyền tải thông điệp về tình yêu quê hương và cuộc sống người dân làng quê.
       Bài thơ mở đầu với hình ảnh con chim thêu trên nền vải lụa mềm mại. Hình ảnh này không chỉ gợi lên sự tinh tế của nghệ thuật thêu mà còn thể hiện sự tự do và bay bổng của con chim trong bầu trời rộng lớn. Con chim thêu trở thành biểu tượng cho tình yêu quê hương, sự gắn bó và khát vọng tự do của người dân làng quê. 
       Nguyễn Bính đã sử dụng những hình ảnh giản dị, gần gũi với cuộc sống thường ngày để tạo nên bức tranh quê hương sống động. Những từ ngữ trong bài thơ được chọn lọc kỹ càng, tạo nên nhịp điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển như tiếng chim hót giữa trời xuân. Các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, ẩn dụ và đối lập được tác giả sử dụng tinh tế, tạo nên sức hút đặc biệt cho bài thơ.
       Chủ đề chính của bài thơ là nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Từng câu chữ trong bài thơ đều thấm đẫm tình cảm nhớ thương, khao khát về một quê hương yên bình, hạnh phúc. Qua hình ảnh con chim thêu, Nguyễn Bính đã gửi gắm tình yêu quê hương sâu sắc, cũng như nỗi nhớ nhà da diết.
       Bài thơ "Chim Thêu" không chỉ tôn vinh vẻ đẹp quê hương mà còn gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc nhớ nhung và khát khao về một cuộc sống yên bình nơi làng quê. Nguyễn Bính đã thành công trong việc khắc họa nên những hình ảnh đẹp đẽ, dung dị của quê hương, từ đó gửi gắm tình yêu, nỗi nhớ nhà của mình vào từng câu chữ.

16 tháng 3

Truyện ngắn “Những bông hoa hình trái tim” của Võ Thu Hương là một tác phẩm đầy ý nghĩa, ca ngợi tình cảm thầy trò, sự yêu thương và hy sinh thầm lặng của người giáo viên dành cho học sinh. Câu chuyện kể về cô giáo Nhung – một người tận tâm, luôn yêu thương, quan tâm đến học trò của mình. Khi thấy cậu học sinh Hoàng có hoàn cảnh đặc biệt, cô đã âm thầm giúp đỡ và động viên cậu vượt qua khó khăn. Chi tiết những bông hoa đá hình trái tim mà Hoàng tặng cô là biểu tượng cho lòng biết ơn sâu sắc của học trò dành cho người thầy tận tụy.

Về nghệ thuật, tác phẩm có lối kể chuyện nhẹ nhàng, cảm động, sử dụng nhiều hình ảnh giàu ý nghĩa, đặc biệt là hình ảnh bông hoa đá hình trái tim mang tính biểu tượng cao. Ngôn ngữ giàu cảm xúc, gần gũi giúp người đọc dễ dàng cảm nhận được tình thầy trò thiêng liêng. Qua câu chuyện, tác giả gửi gắm thông điệp sâu sắc về lòng yêu thương, sự hy sinh cao quý của người giáo viên và giá trị của lòng biết ơn trong cuộc sống.

17 tháng 3

Hay quá

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)   Đọc đoạn trích sau:        Tôi quyết định rồi, tôi sẽ bỏ nhà đi bụi đời […]. Chạng vạng, tôi xếp đồ bỏ vô túi quẩy đi. Mới đầu tôi tính đi xa thiệt là xa kìa, nhưng nghĩ lại tôi đi xa thì ba mẹ tôi làm sao kiếm gặp. Ba mẹ tôi dứt khoát phải suy nghĩ về thái độ quá khắt khe của mình khi thấy thằng con quý tử đang lăn lóc vỉa hè. Tôi quyết...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

 

Đọc đoạn trích sau:

 

     Tôi quyết định rồi, tôi sẽ bỏ nhà đi bụi đời […]. Chạng vạng, tôi xếp đồ bỏ vô túi quẩy đi. Mới đầu tôi tính đi xa thiệt là xa kìa, nhưng nghĩ lại tôi đi xa thì ba mẹ tôi làm sao kiếm gặp. Ba mẹ tôi dứt khoát phải suy nghĩ về thái độ quá khắt khe của mình khi thấy thằng con quý tử đang lăn lóc vỉa hè. Tôi quyết định đến ngã tư chỗ rẽ về nhà ngoại, thể nào lúc ba mẹ cuống cuồng chạy đi tìm cũng qua đây […]

 

     Ở đó, tôi gặp thằng Lụm.

 

     […] Thằng Lụm rờ cái cặp đầy nhóc quần áo tôi:

 

     - Mầy đi đâu mà ngồi đây?

 

     Tôi nói dõng dạc để chứng tỏ con người mình đầy dũng cảm:

 

     - Đi bụi đời!

 

     Nó chê liền:

 

     - Tướng mầy mà đi bụi? Yếu như cọng bún mà nói đi bụi, mắc cười.

 

     Tôi giận lắm, tuy nhiên để chứng tỏ mình là người lớn, tôi nhún vai ra chiều không chấp. Tôi hỏi lại nó ra đây làm cái gì. Nó nói, nó tìm má nó. Tôi hỏi má nó ở đâu, nó lắc đầu hỏng biết. Tôi hỏi tới:

 

      - Sao kỳ vậy?

 

     Thằng Lụm “còi” nhún vai, co mình lại tuồng như ngọn gió vừa bay qua lạnh lắm vậy.

 

     - Hồi đó, hồi tao còn nhỏ ơi là nhỏ, má tao bỏ tao lại đây nè.

 

     - Là sao? - Tôi chưng hửng.

 

     - Tao cũng đâu có biết. Chắc má tao gặp chuyện gì đó buồn lắm, nuôi không nổi tao nên bỏ tao lại đấy. Bởi vậy tao tên Lụm đó.

 

     - Xạo hoài.

 

     Thằng Lụm lắc đầu ra chiều chán nản:

 

     - Thiệt đó, biết sao tao đen thui vậy hôn?- Nó chìa ra cái mặt như chàm cháy - Tao bị bỏ ngoài nắng đó. Hồi đó ở ngã tư nầy vắng hoe hà, tao nằm khóc cả buổi mà đâu có ai hay. Tới chừng đói quá tao mới khóc, tao khóc rổn rổn luôn, tao mạnh miệng từ hồi nhỏ mà. Rồi cái có bà dì bán bánh mì chạy lại, bồng lên, đâu có sữa, bà dì mới móc ruột bánh mì cho tao trấp trấp đỡ, dè đâu tao ăn hết ổ bánh mì luôn. Bà dì thấy tao dễ nuôi, nuôi luôn, sau này, tao kêu bả bằng ngoại. Tao lớn mà hổng tốn một miếng sữa nào hết, hay chưa?

 

     […]

 

     - Sao mày đi bụi? - Thằng Lụm chợt hỏi.

 

     - Ba tao... - tôi chép miệng ra vẻ oan ức - ba tao đánh tao. […]

 

     Giọng thằng Lụm vừa hồ hởi vừa có vẻ ganh tị:

 

     - Mày sướng thiệt (trời, bị đánh mà sướng nỗi gì). Vậy mà còn bỏ nhà đi. Đồ ngu!

 

     Tự nhiên vậy rồi nó chửi tôi à. Tôi cãi:

 

     - Mầy đâu có má có ba đâu có biết. Người lớn khó dữ lắm.

 

     - Chẳng thà có má, có ba, bị rầy gì tao cũng chịu! - Thằng Lụm trở nên trầm ngâm, coi nó già quá trời!- Nhưng mầy đừng có lo, tao ngồi đây thể nào cũng gặp má tao thôi. Thế nào má đi qua má cũng nhìn ra tao. Mai mốt bị rầy, bị đòn cho đã. […]

 

     Thằng Lụm “còi” làm tôi hối hận và nhớ ba mẹ quá chừng. Tôi muốn trở về. Tôi ngồi im lặng suy nghĩ trong khi thằng Lụm đứng dậy để nhìn mỗi khi có một lượt xe dừng lại trước đèn đỏ. Tôi chợt sợ quá, có khi nào ba mẹ giận bỏ tôi luôn như thằng Lụm không. Ba mẹ sẽ sanh nhiều thiệt nhiều em khác còn tôi thì biết kiếm đâu ra ba mẹ khác bay giờ. Tôi ngồi lo lắng đến mức, khi ba mẹ tôi ghé xe lại dưới đường tôi còn không hay. Thấy bóng mẹ đứng sịch trước mặt mình, tôi bật khóc:

 

     - Con tính đâu ba mẹ bỏ con luôn rồi.

 

     Mẹ không vồ vập ôm lấy tôi mà điềm đạm cầm bàn tay tôi bóp mạnh, còn ba thì vỗ vỗ vào đầu tôi.

 

     - Con hư quá. Con đừng làm vậy ba mẹ buồn.

 

     Thằng Lụm đứng trân trân nhìn tôi với đôi mắt buồn tủi. Tôi quẹt nước mắt bước lại gần nó, bất giác tôi gọi thằng Lụm bằng anh:

 

     - Em về nghen, anh Lụm.

 

     […] Thằng Lụm cảm động, lắc đầu, nó nói trổng không:

 

     - Mai mốt ra đây chơi, nghen mậy!

 

     Tôi vừa ngoái vừa gật đầu. Ba tôi hỏi ai, tôi trả lời “Bạn con. Anh Lụm. Anh Lụm tội nghiệp lắm ba à…”. Không biết thằng Lụm “còi” có biết tôi đang kể về nó không mà nó nhìn theo xe tôi đến khuất thì thôi. Khi tôi ngoái lại, dưới đèn sáng rực, tôi thấy trong mắt nó lấp loáng những giọt nước. […]

 

(Trích Lụm Còi, Nguyễn Ngọc Tư)

 

Câu 1. Xác định ngôi kể được sử dụng trong văn bản.

 

Câu 2. Xác định thời gian, không gian trong truyện.

 

Câu 3. Vì sao thằng Lụm mong được ba mẹ đánh như nhân vật “tôi”?

 

Câu 4. Đầu truyện, nhân vật “tôi” cố tỏ ra mình là người lớn, gọi Lụm là “mày”. Nhưng đến cuối truyện, nhân vât “tôi” đổi cách xưng hô với Lụm như thế nào? Việc đổi cách xưng hô đó nói lên điều gì?

 

Câu 5. Anh/Chị có đồng tình với quan điểm: Hãy rời xa gia đình và sống cuộc đời như bạn muốn? Vì sao?

 

0
II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)   Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu ra các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử.   Câu 2. Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ sau:   Con đi xa, nhớ hương vị tuổi thơ Mùi cơm cháy, con vẫn ăn ngày trước Đôi chân con đi khắp miền Tổ quốc Chẳng nơi nào... có vị cơm năm xưa...   Cơm cháy quê nghèo... có nắng, có mưa Có...
Đọc tiếp

II. PHẦN VIẾT (6 ĐIỂM)

 

Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) nêu ra các biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích lịch sử.

 

Câu 2. Viết bài văn nghị luận phân tích đoạn thơ sau:

 

Con đi xa, nhớ hương vị tuổi thơ
Mùi cơm cháy, con vẫn ăn ngày trước
Đôi chân con đi khắp miền Tổ quốc
Chẳng nơi nào... có vị cơm năm xưa...

 

Cơm cháy quê nghèo... có nắng, có mưa
Có lời mẹ ru, ngọt ngào cay đắng
Có những hi sinh, nhớ thương thầm lặng
Con yêu nước mình... từ những câu ca...

 

Cơm cháy quê nghèo... mặn mồ hơi cha
Có vị thơm rơm, cánh đồng mùa gặt
Muối mặn gừng cay, có hè nắng gắt
Có ánh trăng vàng... chị múc bên sông...

 

(Trích Mùi cơm cháy, Vũ Tuấn, Khúc ru quê, NXB Hội nhà văn, 2022, tr.130-131)

 

1
15 tháng 3

Câu 1: Biện pháp bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử

Di tích lịch sử là những bằng chứng quan trọng về quá trình hình thành và phát triển của dân tộc. Bảo vệ và phát huy giá trị các di tích là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Dưới đây là một số biện pháp thiết thực:

Trước tiên, cần nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của di tích lịch sử thông qua giáo dục và truyền thông. Các trường học nên tổ chức những buổi học ngoài trời tại di tích, kết hợp với các hoạt động trải nghiệm thực tế.

Thứ hai, nhà nước cần đầu tư, trùng tu và bảo tồn di tích một cách bài bản, không làm mất đi giá trị nguyên gốc của chúng. Cần kiểm soát chặt chẽ việc khai thác du lịch tại các di tích để tránh tình trạng xâm hại và hủy hoại.

Thứ ba, các hoạt động du lịch và tham quan cần được tổ chức có quy hoạch, kết hợp giữa giữ gìn và khai thác hợp lý. Du khách cũng cần được giáo dục về ý thức bảo vệ di tích.

Tóm lại, việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích là nhiệm vụ quan trọng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Chúng ta cần chung tay để giữ gìn những giá trị văn hóa và lịch sử quý báu cho thế hệ mai sau.

Câu 2: Phân tích đoạn thơ

Bài thơ "Mùi cơm cháy" của Vũ Tuấn đã khắc họa hình ảnh một tuổi thơ gắn liền với ký ức quê hương đầy tình cảm. Tác giả dùng hình ảnh "mùi cơm cháy" như một biểu tượng của những ký ức thơ ấu, gắn với tình yêu gia đình và quê hương.

Từ "Mùi cơm cháy, con vẫn ăn ngày trước" đến "Chẳng nơi nào... có vị cơm năm xưa", tác giả gợi nhớ về những năm tháng gắn bó với quê nhà, với những món ăn dân dã mà thơ ấu đã quen thuộc. Các hình ảnh "có nắng, có mưa", "lời mẹ ru, ngọt ngào cay đắng" tạo nên bức tranh quê hương vừa mộc mạc, vừa đầy yêu thương.

Ngoài ra, bài thơ còn nhấn mạnh sự hi sinh thầm lặng của cha mẹ, những gian lao cực nhọc mà người con đi xa mới thấu hiểu. Nhờ quê, nhờ gia đình càng làm tăng thêm tình yêu đối với đất nước.

Tóm lại, "Mùi cơm cháy" là bài thơ chất chứa tình yêu gia đình, quê hương và tâm hồn của người con xa xứ.

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM) Đọc đoạn trích sau: Cố đô Huế: Di sản Văn hóa thế giới và giá trị lịch sử      Khu di tích cố đô Huế, nằm ở tỉnh Thừa Thiên Huế, được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1993. Cố đô Huế là trung tâm văn hóa và chính trị của triều đại nhà Nguyễn từ thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Đây là một quần thể di tích bao...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 ĐIỂM)

Đọc đoạn trích sau:

Cố đô Huế: Di sản Văn hóa thế giới và giá trị lịch sử

     Khu di tích cố đô Huế, nằm ở tỉnh Thừa Thiên Huế, được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1993. Cố đô Huế là trung tâm văn hóa và chính trị của triều đại nhà Nguyễn từ thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Đây là một quần thể di tích bao gồm cung điện, đền đài, lăng tẩm, chùa chiền và các công trình kiến trúc quân sự, tạo thành một hệ thống đô thị độc đáo và đầy giá trị lịch sử. Các công trình trong Cố đô Huế đều mang đậm nét kiến trúc phong kiến Việt Nam, kết hợp với ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, tạo nên một phong cách kiến trúc độc đáo.

     Khu vực Hoàng Thành Huế là nơi vua chúa nhà Nguyễn ngự trị, bao gồm những cung điện như Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Cung Thái Hòa và những công trình hành chính như Ngọ Môn, Đại Cung Môn. Những công trình này đều được xây dựng với vật liệu bền vững, trang trí tinh xảo, thể hiện quyền uy của triều đại. Ngoài ra, các lăng tẩm của các vua Nguyễn như Lăng Tự Đức, Lăng Minh Mạng, Lăng Khải Định không chỉ là nơi an nghỉ của các vị vua mà còn là những công trình kiến trúc đặc sắc, kết hợp giữa phong thủy, nghệ thuật điêu khắc và hội họa.

Hoàng thành huế

Ảnh: Hoàng Thành Huế

     Đặc biệt, Huế là trung tâm văn hóa, giáo dục và tôn giáo của miền Trung, với các di tích như Chùa Thiên Mụ, Chùa Từ Hiếu và nhiều ngôi chùa cổ khác, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo. Huế cũng là nơi bảo tồn và phát huy nhiều lễ hội truyền thống như Lễ hội Huế, Tết Nguyên Đán và các lễ hội đền, miếu trong suốt năm. Đây là những dịp để người dân Huế tưởng nhớ các vị vua, tổ tiên, và duy trì những giá trị văn hóa của mình.

     Cố đô Huế còn là một trung tâm giao thoa văn hóa Đông - Tây, là nơi gặp gỡ của nhiều nền văn hóa, từ văn hóa Việt Nam truyền thống, văn hóa Trung Hoa, đến ảnh hưởng của phương Tây trong thời kỳ bảo hộ. Cảnh quan thiên nhiên của Huế cũng góp phần tạo nên vẻ đẹp huyền bí và thơ mộng, với dòng sông Hương uốn lượn và những ngọn đồi, khu rừng xanh tươi.

     Ngày 6-12-1993, Cố đô Huế đã được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, do đó nơi đây trở thành một trong những di tích quan trọng nhất của Việt Nam và của nhân loại. Quyết định này đã tạo điều kiện để bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa của cố đô Huế, đồng thời thu hút lượng lớn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu.

(Theo baothuathienhue.vn)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nào?

Câu 2. Đối tượng thông tin được đề cập đến trong văn bản là gì?

Câu 3. Phân tích cách trình bày thông tin trong câu văn: “Ngày 6-12-1993, Cố đô Huế đã được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, do đó nơi đây trở thành một trong những di tích quan trọng nhất của Việt Nam và của nhân loại.”.

Câu 4. Phương tiện phi ngôn ngữ nào được sử dụng trong văn bản? Hãy nêu tác dụng của phương tiện phi ngôn ngữ đó trong việc biểu đạt thông tin trong văn bản.

Câu 5. Mục đích và nội dung của văn bản trên là gì?

2
15 tháng 3

cô ơi em học lớp 6 ko làm được mấy bài lớp 9 ạ

15 tháng 3

Câu 1: Văn bản trên thuộc kiểu văn bản thuyết minh.

Câu 2: Đối tượng thông tin được đề cập trong văn bản là Cố đô Huế – một Di sản Văn hóa thế giới với các giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc đặc sắc.

Câu 3: Câu văn trên cung cấp một mốc thời gian quan trọng (ngày 6-12-1993) và sự kiện nổi bật (Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới). Câu văn sử dụng cách trình bày nguyên nhân - kết quả: việc công nhận của UNESCO đã góp phần nâng cao vị thế của Cố đô Huế, biến nơi đây thành một trong những di tích quan trọng nhất của Việt Nam và thế giới.

Câu 4: Phương tiện phi ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản là hình ảnh (ảnh Hoàng Thành Huế). Hình ảnh này giúp người đọc dễ hình dung về Cố đô Huế, tăng tính trực quan và làm cho nội dung trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

Câu 5:

  • Mục đích: Cung cấp thông tin về Cố đô Huế, nhấn mạnh giá trị lịch sử, văn hóa và vai trò của di tích này trong đời sống hiện nay.
  • Nội dung: Văn bản giới thiệu về Cố đô Huế với các công trình kiến trúc tiêu biểu, giá trị văn hóa - lịch sử, sự giao thoa văn hóa, cảnh quan thiên nhiên, cũng như sự công nhận của UNESCO đối với di sản này.
(4,0 điểm) Đọc văn bản sau:                     Ái quốc      Nay ta hát một thiên ái quốc,      Yêu gì hơn yêu nước nhà ta.           Trang nghiêm bốn mặt sơn hà, Ông cha để lại cho ta lọ vàng.        Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,      Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa.           Biết bao công của người xưa, Gang sông, tấc núi, dạ thưa, ruột tằm.    ...
Đọc tiếp

(4,0 điểm) Đọc văn bản sau:

                    Ái quốc

     Nay ta hát một thiên ái quốc,

     Yêu gì hơn yêu nước nhà ta.

          Trang nghiêm bốn mặt sơn hà,

Ông cha để lại cho ta lọ vàng.

 

     Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,

     Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa.

          Biết bao công của người xưa,

Gang sông, tấc núi, dạ thưa, ruột tằm.

 

     Hào Đại Hải âm thầm trước mặt,

     Dải Cửu Long quanh quất miền tây,

          Một toà san sát sinh thay,

Bên kia Vân, Quảng, bên này Côn Lôn.

 

     Vẻ gấm vóc nước non thêm đẹp,

     Rắp những mong cơ nghiệp dài lâu.

          Giống khôn há phải đàn trâu,

Giang sơn nỡ để người đâu vẫy vùng?

 

     Hai mươi triệu dân cùng của hết,

     Bốn mươi năm nước mất quyền không.

          Thương ôi! Công nghiệp tổ tông,

Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao.

 

     Non nước ấy biết bao máu mủ,

     Nỡ nào đem nuôi lũ Sài Lang?

          Cờ ba sắc, xứ Đông Dương,

Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau!

 

     Nhục vì nước, mà đau người trước,

     Nông nỗi này, non nước cũng oan.

          Hồn ơi về với giang san,

Muôn người muôn tiếng hát ran câu này:

 

     “Hợp muôn sức ra tay quang phục,

     Quyết có phen rửa nhục báo thù...”

          Mấy câu ái quốc reo hò,

Chữ đồng tâm ấy phải cho một lòng.

(Phan Bội Châu)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản trên đã tuân thủ về quy luật của thể thơ song thất lục bát thế nào?

Câu 2. Chủ đề của văn bản là gì?

Câu 3. Chỉ ra sự độc đáo trong cách kết hợp từ ở dòng thơ “Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao.”.

Câu 4. Xác định bố cục và mạch cảm xúc của bài thơ.

Câu 5. Trong bài thơ, tác giả Phan Bội Châu đã bộc bạch tình yêu nước của mình, từ đó, dùng ngôn từ để kêu gọi dân tộc đoàn kết đứng lên chống giặc. Trong thời hiện đại, theo anh/chị, chúng ta nên thể hiện lòng yêu nước bằng những cách nào? Viết đoạn văn từ 5 – 7 dòng để trình bày ý kiến của bản thân.

0