Sơn tinh thắng thủy tinh bao nhiêu lần?
Đoán xem
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Câu 1. Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh gồm mấy đoạn? Mỗi đoạn thể hiện nội dung gì? Truyện được gắn với thời đại nào trong lịch sử Việt Nam?
Gợi ý: Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh gồm 4 đoạn:
1. Từ đầu đến người chồng thật xứng đáng: Hùng Vương muốn kén chồng cho Mị Nương.
2. Từ Một hôm có hai chàng đến rước Mị Nương về núi: Cuộc kén rể và chiến thắng thuộc về Sơn Tinh.
3. Từ Thủy Tinh đến sau đến đành rút quân: Cuộc giao tranh dữ dội và quyết liệt của hai thần, cuối cùng Thủy Tinh phải rút quân về.
4. Đoạn còn lại: Hàng năm Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng đều thất bại. Truyện được gắn với thời đại Hùng Vương (nhà nước Văn Lang Âu Lạc) trong lịch sử Việt Nam.
Câu 2. Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh ai là nhân vật chính? Các nhân vật chính được miêu tả bằng những chi tiết nghệ thuật tưởng tượng, kì ảo như thế nào? Ý nghĩa tượng trưng của các nhân vật đó?
Gợi ý: Trong truyện, Sơn Tinh, Thủy Tinh là nhân vật chính. Hai nhân vật này đều có những tài phép lạ: hô mây, hô mưa, chuyển non dời bể...
Ý nghĩa của hai nhân vật: Thủy Tinh đại diện cho sức mạnh ghê gớm của tự nhiên trong việc gây ra bão, lụt. Sơn Tinh tượng trưng cho sức mạnh chống thiên tai và ước mơ chiến thắng lũ lụt của ông cha ta. Trong tiềm thức của nhân dân ta, Sơn Tinh là phúc thần còn Thủy Tinh là hung thần.
Câu 3. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Sơn Tính, Thủy Tinh?
Gơi ý: Đây là câu chuyện tưởng tượng mang tính chất kì ảo, giải thích hiện tượng lũ lụt và thể hiện sức mạnh của người Việt cổ muốn chế ngự sức mạnh của thiên nhiên; đồng thời suy tôn, ca ngợi công lao của các vua Hùng.
Bài viết : http://loptruong.com/soan-bai-son-tinh-thuy-tinh-36-2575.html
1.Truyện Sơn Tinh, Thủy tinh gồm 3 đoạn.
Đoạn 1: thể hiện nội dung là vua Hùng kén rể.
Đoạn 2: thể hiện nội dung là Sơn Tinh, Thủy Tinh cầu hôn và cuộc giao tranh của 2 vị thần.
Đoạn 3: thể hiện nội dung là Thủy Tinh trả thù hàng năm.
Truyện đc gắn vs thời đại vua Hùng thứ 18.
2.Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh nhân vật chính là Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Các nhân vật chính đc miêu tả bằng những chi tiết tưởng tượng kì ảo:
Sơn Tinh: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi,vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi.
= Tượng trưng cho khát vongjvaf khả năng chinh phục thiên tai của nhân dân ta thời xưa.
Thủy Tinh:gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về.
=Tượng trưng cho thiên tai, bão lụt hàng năm.
3.Ý nghĩa của truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh:
Giai thích hiện tượng lũ lụt hàng năm.Đồng thời thể hiện khát vọng chế ngự thiên nhiên của ông cha ta.
Ca ngợi công lao của các vị vua Hùngđã có công dựng nước.
Học tốt!!
-Cây một năm (Cây nhất niên): là cây chỉ có vòng đời 1 năm. Ví dụ: cây mướp , cây cải , cây lúa , cây ngô , cây chuối ...
- Cây lâu năm (Cây đa niên): là cây có vòng đời rất nhiều năm. Ví dụ: cây bồ đề,cây mít,cây xoài...( nói chung là các loại cây ăn quả đều là cây lâu năm ), cây đa,cây phượng, cây bàng
Cây sống 1 năm : Cây Lúa , cây ngô , cây chuối ,..
Cây sống lâu năm : thông , ổi , xoài , mít ,...
Việc kết duyên của Lạc Long Quân và Âu Cơ có điểm kì lạ:
- Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, từ trăm trứng nở ra một trăm người con trai, đàn con không cần bú mớm và tự lớn lên như thổi, khôi ngô, khỏe mạnh
Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con như thế nào và để làm gì là:
- 50 người con theo cha xuống biển
- 50 người con theo mẹ lên núi
- Để các con ở đều các phương, để kẻ miền núi, người miền biển khi có việc gì thì giúp nhau, đều là anh em một nhà.
Giải thích :
- Giếng: là hố đào thẳng đứng, sâu và lòng đất, nơi chứa nước sinh hoạt hàng ngày được con người đào. Giếng thường xuất hiện ở các làng quê.
- Rung rinh: là rung động nhẹ và liên tiếp, một sự chuyển động qua lại nhẹ nhàng, nhưng đủ để thính giác con người có thể nghe thấy.
- Hèn nhát: là thiếu can đảm, sợ hãi trước một vấn đề gì đấy, không dũng cảm để đối mặt và vượt qua nó.
Bài làm
+ Giếng: Là một cái hố đào thẳng đứng, sâu vào lòng đất, thường để lấy nước mà thời xưa hay dùng đến.
+ Rung rinh: Là một cách chuyển động rung động nhẹ và liên tiếp, liên tục.
+ Hèn nhát: Là hèn và nhát, thiếu can đảm đến mức đáng khinh.
# Học tốt #
Dàn ý chung của bài văn miêu tả một người thân trong gia đình em
Yêu cầu:
– Giới thiệu đối tượng cần miêu tả
Lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu về chân dung hay hoạt động của đối tượng và trình bày các hình ảnh đó theo một thứ tự nhất định.
Ngôn ngữ thể hiện được tình cảm thân yêu, gần gũi của mình với đối tượng miêu tả.
1. Mở bài: Giới thiệu người được tả.
( Ai? ở đâu? Tuổi đời? đặc điểm nổi bật? )
2. Thân bài:
a. Miêu tả từng chi tiết:
– Ngoại hình
– Cử chỉ
– Hành động
– Lời nói
b. Đặc điểm nổi bật: Hình dáng, bộ râu, mái tóc, giọng nói.
3. Kết bài:
– Đánh giá về nhân vật
– Tình cảm của bản thân đối vơi nhân vật
PROMOTED CONTENT
Five88.com - Nhà cái uy tín, đánh lô đề tỉ lệ 1 ăn 81. Chơi ngay!
Với Clear TV Key, bạn không phải trả tiền để xem truyền hình nữa
Lapucha
Lá gan của bạn đang nhiễm độc. Hãy đọc ngay bí quyết vàng này
Hyra Gan
Rụng tóc nhiều, tóc bạc theo thời gian thì hãy xem ngay thứ này
Dongycotruyenvn
Bài văn mẫu số 1: Hãy viết bài văn miêu tả một người thân trong gia đình em
Bài làm
Tả một người thân trong gia đình em
Người mà tôi gần gũi và yêu quý nhất là bà nội. Bà như cơn gió quạt mát tuổi thơ của tôi.
Bà đã ngoài bảy mươi tuổi nhưng vẫn nhanh nhẹn và dai sức lắm. Khuôn mặt trái xoan đã in đầy nết nhăn dấu ấn của thời gian và bao sự lo âu,vất vả.Mái tóc bạc phơ như một bà tiên, đôi mắt có nhiều nếp nhăn nhưng ánh mắt vẫn sáng và luôn ánh lên vẻ nhân từ. Đôi tay gầy, nổi rõ các đường gân và mạch máu, nhưng vẫn rất nhanh nhẹn và khéo léo lo toan mọi công việc gia đình.
Cả cuộc đời bà vất vả vì con vì cháu. Đến giờ, khi đã có tuổi bà vẫn chăm sóc gia đình chu đáo. Bố mẹ đi làm, bà lo cho các cháu từng bữa ăn, giấc ngủ, dạy dỗ, bảo ban các cháu học hành.
Bà là trung tâm của mọi người trong gia đình. Từ những câu chuyện của bà, bữa cơm gia đình thêm tiếng cười vui; từ những lời dạy của bà, không khí gia đình luôn đầm ấm, hạnh phúc. Tôi yêu bà, thương bà và cảm phục bà lắm.
Bà đã có tuổi nhưng vẫn rất chăm tập thể dục. Buổi sáng, bà thường dạy sớm, lên sân thượng tập thể dục. Bà thường khuyên chúng tôi “Chăm chỉ học tập là tốt nhưng các cháu cần chịu khó luyện tập thể thao nữa nhé.” Nhớ lời bà dặn, tôi thường dậy sớm cùng tập thể dục với bà.
Dù bận giúp con cháu nhưng bà tôi vẫn tham gia công tác xã hội. Ở khu phố, mọi người bầu bà tôi là Hội trưởng hội phụ nữ. Nào là công tác giải hoà, công tác từ thiện,. cái bóng mảnh mai của bà đã rất thân quen với mọi người trong khu phố. Ai cũng quý mến bà, có việc gì, bà con thường đến hỏi giãi bày, nghe bà giải thích, phân tích. họ rất cảm phục. Những lúc ấy, tôi rất tự hào về bà mình.
Nghe những câu chuyện cổ bà kể, được nhận sự chăm sóc ân cần của bà, tôi thấy mình hạnh phúc vô cùng. Tôi luôn tự nhủ sẽ cố gắng học thật giỏi để đền đáp công ơn của bà. Tôi luôn mong ước bà tôi khoẻ mạnh, sống lâu cùng con cháu.
Bài văn mẫu số 2: Hãy viết bài văn miêu tả một người thân trong gia đình em
Hãy viết bài văn miêu tả một người thân trong gia đình em
Ôi! Sôcôla, một cái tên thật ngọt ngào. Đó chính là tên của em bé nhà em. Tên thật của bé ấy là Uyên Vy. Năm nay, bé đã được tròn bốn tuổi. Sôcôla hiện là niềm vui tinh thần nho nhỏ của dì, dượng và gia đình em.
Bé có thân hình khá bụ bẫm và làn da rám nắng làm cho bé trở nên đáng yêu. Đôi gò má bé phúng phính, ửng hồng. Đôi mắt tròn xoe cộng thêm đôi môi nhỏ và chúm chím tạo nên một vẻ đẹp đáng yêu riêng của bé.
Vì là con nít nên Sôcôla rất sôi nổi và cười đùa suốt ngày. Năm bé đã học lớp Chồi! Bé học trường mầm non Sơn Ca. Mỗi ngày đi học, Sôcôla thường không khóc như những em bé khác khi đến trường, bé tỏ ra rất hiếu học nên hay giành lấy chiếc giỏ xách hình chú gấu trên tay dì em như chứng tỏ bé đã lớn rồi làm cho cả nhà phải bật cười trước những hành động ngộ nghĩnh của bé.
Ở nhà , bé thường rất lười ăn, mỗi lần tới giờ cơm, dì em dường như vất vã hơn với bé vì bé hay nhõng nhẽo,làm nũng hoặc chạy trốn.Cả nhà thường hay nói đùa rằng: “Cứ đến giờ cơm là Dì Út như là người lính đánh trận với Sôcôla.”
Bé có sở thích mặc áo hình động vật với quần. Kem là sở thích ăn uống của bé, mỗi lần ăn kem, bé còn muốn được mẹ âu yếm. Không như những đứa bé, trẻ em khác khi làm lỗi bị mắng sẽ òa khóc, Sôcôla khi bị mắng sẽ chọc cười, nịnh nọt làm mọi người nguôi cơn giận.
Đúng là khi mỗi ngày một lớn bé lại càng thay đổi. Bé biết tạo dáng mỗi khi chụp hình, biết cất cặp khi từ trường học trở về và biết làm nhiều điều hơn nữa…
Em rất yêu Sôcôla, có bé trong nhà là cả nhà đầy ắp những tiếng cười đùa vui vẻ. Mọi mệt mỏi đều tan biến sau mỗi buổi học của em cũng nhờ có bé. “Trẻ em như búp trên cành” là một mầm non tươi đẹp của đất nước. Hãy luôn cho các bé ngôi nhà hạnh phúc, đừng để những chuyện không hay của gia đình làm ảnh hưởng đến những mầm non mới của đất nước.
Tôi cũng vậy, có lẽ tôi không thể quên lỗi lầm mình gây ra hôm đó, khiến người tôi yêu quý nhất - mẹ tôi, buồn lòng...
Hôm ấy, đất dát vàng ánh nắng, trời mát dịu, gió khẽ hôn lên má những người đi đường. Nhưng nó sẽ là ngày tuyệt đẹp, nếu tôi không có bài kiểm tra khoa học tệ hại đến như vậy, hậu quả của việc không chịu ôn bài. Về nhà, tôi bước nhẹ lên cầu thang mà chân nặng trĩu lại. Tôi buồn và lo vô cùng, nhất là khi gặp mẹ, người tôi nói rất chắc chắn vào tối qua: "Con học bài kỹ lắm rồi".
Mẹ đâu biết khi mẹ lên nhà ông bà, ba đi công tác, tôi chỉ ngồi vào bàn máy tính chứ nào có ngồi vào bàn học, bởi tôi đinh ninh rằng cô sẽ không kiểm tra, vì tôi được mười điểm bài trước, nào ngờ cô cho làm bài kiểm tra mười lăm phút. Chả lẽ bây giờ lại nói với mẹ: "Con chưa học bài hôm qua" sao? Không, nhất định không.
Đứng trước cửa, tôi bỗng nảy ra một ý "Mình thử nói dối mẹ xem sao". Nghĩ như vậy, tôi mở cửa bước vào nhà. Mẹ tôi từ trong bếp chạy ra. Nhìn mẹ, tôi chào lí nhí "Con chào mẹ". Như đoán biết được phần nào, mẹ tôi hỏi: "Có việc gì thế con"? Tôi đưa mẹ bài kiểm tra, nói ra vẻ ấm ức: Con bị đau tay, không tập trung làm bài được nên viết không kịp”... Mẹ tôi nhìn, tôi cố tránh hướng khác. Bỗng mẹ thở dài! “Con thay quần áo rồi tắm rửa đi!”.
Tôi "dạ" khẽ rồi đi nhanh vào phòng tắm và nghĩ thầm: "Ổn rồi, mọi việc thế là xong". Tôi tưởng chuyện như thế là kết thúc, nhưng tôi đã lầm. Sau ngày hôm đó, mẹ tôi cứ như người mất hồn, có lúc mẹ rửa bát chưa sạch, lại còn quên cắm nồi cơm điện. Thậm chí mẹ còn quên tắt đèn điện, điều mà lúc nào mẹ cũng nhắc tôi. Mẹ tôi ít cười và nói chuyện hơn. Đêm đêm, mẹ cứ trở mình không ngủ được.
Bỗng dưng, tôi cảm thấy như mẹ đã biết tôi nói dối. Tôi hối hận khi nói dối mẹ. Nhưng tôi vẫn chưa đủ can đảm để xin lỗi mẹ. Hay nói cách khác, tôi vẫn chưa thừa nhận lỗi lầm của mình. Sáng một hôm, tôi dậy rất sớm, sớm đến nỗi ở ngoài cửa sổ sương đêm vẫn đang chảy "róc rách" trên kẽ lá.
Nhìn mẹ, mẹ vẫn đang ngủ say. Nhưng tôi đoán là mẹ mới chỉ ngủ được mà thôi. Tôi nghĩ: Quyển "Truyện về con người" chưa đọc, mình đọc thử xem". Nghĩ vậy, tôi lấy cuốn sách đó và giở trang đầu ra đọc. Phải chăng ông trời đã giúp tôi lấy cuốn sách đó để đọc câu chuyện "lỗi lầm" chăng ! "...
Khi Thượng đế tạo ra con người, Ngài đã gắn cho họ hai cái túi vô hình, một túi chứa lỗi lầm của mọi người đeo trước ngực, còn cái túi kia đeo ở sau lưng chứa lỗi lầm của mình, nên con người thường không nhìn thấy lỗi của mình". Tôi suy ngẫm: "Mình không thấy lỗi lầm của mình sao?". Tôi nghĩ rất lâu, bất chợt mẹ tôi mở mắt, đi xuống giường. Nhìn mẹ, tự nhiên tôi đi đến một quyết định: Đợi mẹ vào phòng tắm, rồi lấy một mảnh giấy nắn nót đề vài chữ.
Mẹ tôi bước ra, tôi để mảnh giấy trên bàn rồi chạy ù vào phòng tắm. Tôi đánh răng rửa mặt xong, đi ra và... chuẩn bị ăn bữa sáng ngon lành do mẹ làm. Và thật lạ, mảnh giấy ghi chữ: "Con xin lỗi mẹ" đã biến đâu mất, thay vào đó là một chiếc khăn thơm tình mẹ và cốc nước cam. Tôi cười, nụ cười mãn nguyện vì mẹ đã chấp nhận lời xin lỗi của tôi.
Đến bây giờ đã ba năm trôi qua, mảnh giấy đó vẫn nằm yên trong tủ đồ của mẹ. Tôi yêu mẹ vô cùng, và tự nhủ sẽ không bao giờ để mẹ buồn nữa. Tôi cũng rút ra được bài học quý báu: Khi bạn biết xin lỗi bố mẹ, bạn sẽ có nhiều hơn một thứ bạn vẫn đang có, đó là tình thương.
"Từ thuở sinh ra tình mẫu tửTrao con ấm áp tựa nắng chiều".
baif nayf ddax dduocwj 9 ddieemr luoon ddaays !!!!!
Nhìn bên phải, bấm vô thống kê hỏi đáp ạ, VÀO TRANG CÁ NHÂN CỦA E Em bức xúc lắm anh chị ạ, xl mấy anh chị vì đã gây rối Thiệt tình là ko chấp nhận nổi con nít ms 2k6 mà đã là vk là ck r ạ, bày đặt yêu xa, chưa lên đại học Đây là \'tội nhân\' https://olm.vn/thanhvien/nhu140826 và https://olm.vn/thanhvien/trungkienhy79
VÀO TRANG CÁ NHÂN CỦA E Em bức xúc lắm anh chị ạ, xl mấy anh chị vì đã gây rối Thiệt tình là ko chấp nhận nổi con nít ms 2k6 mà đã là vk là ck r ạ, bày đặt yêu xa, chưa lên đại học Đây là \'tội nhân\' https://olm.vn/thanhvien/nhu140826 và https://olm.vn/thanhvien/trungkienhy79
Nhìn bên phải, bấm vô thống kê hỏi đáp ạ, VÀO TRANG CÁ NHÂN CỦA E Em bức xúc lắm anh chị ạ, xl mấy anh chị vì đã gây rối Thiệt tình là ko chấp nhận nổi con nít ms 2k6 mà đã là vk là ck r ạ, bày đặt yêu xa, chưa lên đại học Đây là \'tội nhân\' https://olm.vn/thanhvien/nhu140826 và https://olm.vn/thanhvien/trungkienhy79
nhieu lan
Sơn Tinh - Thủy Tinh được ghi chép trong Việt điện u linh tập với nhan đề Tản Viên Hựu Thánh Khuông Quốc Hiển Linh Ứng Vương. Đây là một quyển sách ra đời khá sớm, ước tính vào thời nhà Trần, chuyên ghi chép những câu chuyện thần lịch quỷ dị của nước Đại Việt.
Truyện lấy bối cảnh thời Hùng Vương thứ 18 kén rể. Ông có một cô con gái, được gọi là Mỵ Nương. Thục vương Phán sai sứ sang cầu hôn, vua muốn gả. Quan Đại thần là Lạc hầu cản rằng: "Ông ấy muốn dòm dỏ nước ta đó."
Hùng Vương sợ sinh ra hiềm khích. Lạc hầu tâu: "Đại Vương đất rộng dân đông, tìm kẻ nào có kỳ tài dị thuật mà gả cho làm rể rồi thiết lập kỵ binh cho sẵn thì có sợ gì?"
Vua nghe phải mới tuyệt giao với Thục Vương rồi tìm khắp trong nước những người có dị thuật. Vương (ý nói Sơn Tinh) cùng với Thủy Tinh đều đến ứng tuyển. Hùng Vương bảo đem ra thi tài. Vương có thuật xem suốt ngọc đá; Thủy Tinh có thuật nhập vào nước lửa; người nào cũng có tài linh thông. Hùng Vương cả mừng, bảo Lạc hầu rằng: "Xem tài của hai chàng thì ta thấy đều nên gả con cho cả hai, duy ta chỉ có một người con gái mà đến hai người thì tính làm sao?"
Lạc hầu tâu: "Vua nên hẹn với hai chàng hễ ai cưới trước thời được."
Hùng Vương cho là phải; vua bảo với hai chàng về chuẩn bị lễ vật. Vương về bản hộ, suốt đêm biện gấp thổ vật như là: vàng, bạc, ngọc báu, tê giác, ngà voi, với lại chim quý, thú lạ, mỗi thứ một trăm. Hôm sau, sáng tinh sương, Vương đệ đến dâng hiến Hùng Vương. Hùng Vương mừng lắm, gả Mỵ Nương cho Vương; Vương rước vợ về đem lên ở núi Lôi Sơn.
Đến chiều tối, Thủy Tinh cũng đem thủy vật đến, như là trân châu, đồi mồi, san hô, hổ phách, với lại cá kình, cá nghê, các thứ cá ngon mỗi thứ một trăm, đem đến bày ra để dâng vua, nhưng Mỵ Nương đã theo Vương về mất rồi!
Thủy Tinh đại nộ đem quân đuổi theo, toan muốn nghiền nát núi Lôi Sơn. Vương dời lên ở trên chóp núi Tản Viên, đời đời cùng với Thủy Tinh là kẻ thù. Cứ mỗi năm đến mùa thu, Thủy Tinh dâng nước lên đánh núi Tản Viên, dân chúng đem nhau đắp đê để giúp Vương. Thủy Tinh không thể phạm đến được.
Linh tích của Vương rất nhiều, kể không xiết.
Lĩnh Nam chích quái[sửa | sửa mã nguồn]
Bên cạnh Việt điện u linh tập, tác phẩm Lĩnh Nam chích quái cũng ghi lại truyền thuyết này với tựa đề là Tản Viên sơn truyện (傘圓山傳; tạm hiểu là Câu chuyện về thần núi Tản Viên).
Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm vạn (?). Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy. Theo sách Ai giao châu tự của Đường Tăng thì Đại Vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường, vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện. Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng: "Linh khí ở phương Nam không thể lường được, cái vượng khí đời nào hết được!"
Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy đó. Xưa kia đại vương trông thấy phong cảnh núi Tản Viên đẹp đẽ bèn làm một con đường từ bến Bạch Phiên đi lên phía nam núi Tản Viên, qua động An Vệ, tới các ngọn nguồn lạch suối đều dựng điện để nghỉ ngơi. Rồi lại đi qua rìa núi đến chỏm núi có mây che thì định cư ở đó. Đôi lúc rong chơi trên sông Tiểu Hoàng Giang xem đánh cá, phàm đi qua các làng xóm đều dựng điện để nghỉ ngơi. Về sau, nhân dân theo dấu vết các điện đó mà lập đền miếu để thờ cúng.
Lại theo truyện cũ ở sách Giao Châu ký của Lỗ Công, tương truyền rằng Đại Vương sơn tinh họ Nguyễn, cùng vui ở với loài thủy tộc ở đất Gia Ninh, huyện Phong Châu. Thời vua Chu Noãn Vương, vua Hùng Vương thứ 18 đến ở đất Việt Trì, Châu Phong, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên là Mỵ Nương (cháu gái 27 đời của Thần Nông) có sắc đẹp; Thục Vương Phán cầu hôn, nhà vua không bằng lòng, muốn chọn rể hiền.
Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người, một người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh đến để cầu hôn. Hùng Vương truyền tỉ thí pháp thuật. Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, ra vào trong đá không có gì trở ngại. Thủy Tinh lấy nước phun lên không biến thành mây mưa. Vua nói: "Hai vị đều có phép thần thông, nhưng ta chỉ có một con gái, vậy ai mang sính lễ tới trước, ta khắc gả cho."
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang ngọc quý, vàng bạc sơn cầm, dã thú... các lễ vật đến tiến, vua y cho. Thủy Tinh đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận đem loài thủy tộc định đánh để cướp lại. Vương lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện Từ Liêm. Thủy Tinh bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở ngách sông Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi qua Cam Giá, Xa Lâu, Cổ Hào, Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng lớn để mở lối đi cho quân thủy tộc. Thường làm mưa gió mịt mù, dâng nước lên đánh Vương. Dân ở chân núi thấy thế bèn cắm một hàng rào thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu viện. Thấy rơm rác trôi bên ngoài hàng rào bèn bắn, thủy tộc chết biến thành thây ba ba thuồng luồng trôi tắc cả khu sông. Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng tám vẫn thường như vậy.
Dân vùng chân núi hay bị gió to nước lớn, lúa má thiệt hại cả. Người đời tương truyền rằng đó là Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau lấy Mỵ Nương. Đại Vương được bí quyết trường sinh của thần tiên nên rất hiển linh, đó là vị đệ nhất phúc thần của nước Đại Việt vậy.
Đại Việt Sử ký Toàn thư[sửa | sửa mã nguồn]
Truyền thuyết này vốn không được ghi trong những cuốn sử biên niên như Đại Việt sử ký, Đại Việt sử lược, nhưng đến Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê thì lại chép vào, phần ngoại kỷ thời Hồng Bàng Thị - Hùng vương.
Cuối thời Hùng Vương (sách không ghi Hùng Vương có 18 đời), vua có con gái gọi là Mị Nương, nhan sắc xinh đẹp. Thục Vương (không phải Thục Phán) nghe tiếng, đến cầu hôn. Vua muốn gả, nhưng Hùng hầu can rằng: "Họ muốn chiếm nước ta, chỉ lấy việc hôn nhân làm cớ mà thôi." Thục Vương vì chuyện ấy để bụng oán giận.
Vua muốn tìm người xứng đáng để gả, bảo các bề tôi rằng: "Đứa con gái này là giống tiên, người nào có đủ tài đức mới cho làm rể." Bấy giờ có hai người từ ngoài đến, lạy dưới sân để cầu hôn. Vua lấy làm lạ, hỏi thì họ thưa rằng một người là Sơn Tinh, một người là Thủy Tinh, đều ở trong cõi cả, nghe nhà vua có thánh nữ, đánh bạo đến xin lĩnh mệnh.
Vua nói: "Ta có một người con gái, lẽ nào lại được cả hai rể hiền?" Bèn hẹn đến ngày hôm sau, ai đem đủ sính lễ đến trước thì gả cho người ấy. Hai người vâng lời, lạy tạ ra về.
Hôm sau, Sơn Tinh đem các đồ châu báu vàng bạc, chim núi thú rừng đến dâng. Vua y hẹn gả con cho. Sơn Tinh đón vợ về ở ngọn núi cao trên núi Tản Viên. Thủy Tinh cũng đem sính lễ đến sau, giận tiếc là không kịp, bèn kéo mây làm mưa, dâng nước tràn ngập, đem các loài thủy tộc đuổi theo. Vua cùng Sơn Tinh lấy lưới sắt chăng ngang thượng lưu sông Từ Liêm để chặn lại. Thủy Tinh theo sông khác, từ Ly Nhân vào chân núi Quảng Oai rồi theo dọc bờ lên cửa sông Hát, ra sông lớn mà rẽ vào sông Đà để đánh Tản Viên, nơi nơi đào sâu thành vực thành chằm, chứa nước để mưu đánh úp. Sơn Tinh có phép thần biến hóa, gọi người Man đan tre làm rào chắn nước, lấy nỏ bắn xuống, các loài có vẩy và có vỏ trúng tên đều chạy trốn cả. Rốt cuộc Thủy Tinh không thể xâm phạm được núi Tản Viên. (Tục truyền Sơn Tinh và Thủy Tinh từ đấy về sau đời đời thù oán, mỗi năm mùa nước to thường vẫn đánh nhau).
Núi Tản Viên là dãy núi cao của nước Việt ta, sự linh thiêng rất ứng nghiệm. Mị Nương đã lấy Sơn Tinh, Thục Vương tức giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đến đời cháu là Thục Phán có dũng lược, bèn đánh lấy nước.
Phiên bản phổ thông[sửa | sửa mã nguồn]
Câu chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh phổ biến thì lại có một số chi tiết khác hẳn. Đặc biệt là phiên bản Sách giáo khoa (SGK) Ngữ Văn Tập 1 Lớp 6 (Nhà Xuất bản Giáo dục).
Hùng Vương thứ 18 có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu (nhiều phiên bản về sau cho rằng nàng tên Ngọc Hoa). Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh. Một người là chúa vùng non cao, một người là chúa vùng nước thẳm. Cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. Vua Hùng băn khoăn không biết nhận lời ai, từ chối ai, bèn cho mời các Lạc hầu vào bàn bạc.
Xong, vua phán: "Hai chàng đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới con gái ta." Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua bảo: "Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”.
Hôm sau, mới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mị Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đòi cướp lấy Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió, làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.
Sơn Tinh không hề nao núng. Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt. Thần Nước đành rút quân. Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm Thủy Tinh làm mưa làm gió, bão lụt dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, Thần Nước đánh mệt mỏi, chán chê không thắng nổi Thần Núi để cướp Mị Nương, đành rút quân về.
Câu chuyện về sính lễ[sửa | sửa mã nguồn]
Trong cả ba sách cổ là Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái và Toàn thư thời nhà Lê, chi tiết sính lễ của Hùng Vương không hề chi tiết, đa phần Hùng Vương không đưa ra cụ thể và cả hai đều dâng những thứ quý của bản xứ.
Điểm mấu chốt của việc Thủy Tinh thua đơn giản là đến muộn. Tuy nhiên, bản trong Sách giáo khoa lại đưa ra rất cụ thể — "một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi" — và đặc biệt là những thứ này lại nghiêng về phía Sơn Tinh nhiều hơn. Điều này dấy lên những ý kiến tranh luận câu chuyện thiên vị Sơn Tinh. Tuy nhiên, những lập luận trên chỉ có ý nghĩa tranh luận biện giải, nếu đó chỉ là cảm nhận về phiên bản truyền thuyết bản biến thể của SGK phổ thông, chứ những lập luận trên không có ý nghĩa gì đối với nhất với những phiên bản cổ hơn.
Bài thơ "Sơn Tinh, Thủy Tinh" do Nguyễn Nhược Pháp sáng tác, một người sống đầu thế kỉ 20, cũng không đưa ra bất kì chi tiết sính lễ khớp với SGK đưa ra, cụ thể qua những câu thơ sau.
Rừng xanh thả mây đào man mác,
Sơn Tinh ngồi bạch hổ đi đầu
Mình phủ áo bào hồng ngọc dát,
Tay ghì cương hổ, tay cầm lau.
Theo sau năm chục con voi xám
Hục hặc, lưng cong phủ gấm điều,
Tải bạc, kim cương, vàng lấp loáng,
Sừng tê, ngà voi và sừng hươu
Hùng Vương trên mặt thành liễu rủ,
Hớn hở thần trông, thoáng nụ cười.
Thần suốt đêm sao dài không ngủ,
Mày ngài, mắt phượng vẫn còn tươi.
Sơn Tinh đến lạy chào bên cửa,
Vua thân ngự đón nàng Mỵ Nương.
Lầu son nàng ngoái trông lần lữa,
Mi xanh lệ ngọc mờ hơi sương.
Quỳ lạy cha già lên kiệu bạc,
Thương người, thương cảnh xót lòng đau.
Nhìn quanh, khói tỏa buồn man mác,
Nàng kêu: "Phụ Vương ôi! Phong Châu!"
Kiệu nhỏ đưa nàng đi thoăn thoắt,
Hùng Vương mơ vịn tay bờ thành.
Trông bụi hồng tuôn xa, xa lắc,
Mắt nhoà lệ ngọc ngấn đầm quanh...
Thoảng gió vù vù như gió bể,
Thủy Tinh ngồi trên lưng rồng vàng.
Yên gấm tung dài bay đỏ choé,
Mình khoác bào xanh da trời quang
Theo sau cua đỏ và tôm cá,
Chia đội năm mươi hòm ngọc trai,
Khập khiễng bò lê trên đất lạ,
Trước thành tấp tểnh đi hàng hai.
Hùng Vương mặt rồng chau ủ rũ,
Chân trời còn phảng bóng người yêu,
Thủy Tinh thúc rồng đau kêu rú,
Vừa uất vì thương, vừa bởi kiêu.
Co hết gân nghiến răng, thần quát:
"Giết! Giết Sơn Tinh hả hờn ta!"
Tức thời nước sủi reo như thác,
Tôm cá quăng ngọc trai mà huơ.
Thế hệ người Việt Nam hiện đại luôn giữ hình tượng voi chín ngà, gà chín cựa và ngựa chín hồng mao làm biểu tượng nghệ thuật của câu chuyện này, và ngộ nhận đó là điều hiển nhiên, ngay cả với những phiên bản cổ hơn. Sự thực cho thấy rằng, ngay cả Nguyễn Nhược Pháp cũng không sử dụng chất liệu hình ảnh voi, gà và ngựa, có khả năng cao đây chỉ là sản phẩm của giai đoạn Việt Nam rất gần đây, và nó trở nên phổ biến qua phiên bản SGK mà ta đã biết.
các bạn ơi ti ck đúng cho mik nha