K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi: CHIẾU CẦU HIỀN TÀI(1) (Xuất tự Sử ký, năm Kỷ dậu, năm Thuận thiên thứ hai (1429))       Trẫm nghĩ: Được thịnh trị tất ở việc cử hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử. Bởi thế người làm vua thiên hạ phải lấy đó làm việc trước tiên. Ngày xưa, lúc thịnh thời, hiền sĩ đầy triều nhường nhau địa vị, cho nên dưới không...
Đọc tiếp

(4 điểm) Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

CHIẾU CẦU HIỀN TÀI(1)

(Xuất tự Sử ký, năm Kỷ dậu, năm Thuận thiên thứ hai (1429))

      Trẫm nghĩ: Được thịnh trị tất ở việc cử hiền, được hiền tài tất do sự tiến cử. Bởi thế người làm vua thiên hạ phải lấy đó làm việc trước tiên. Ngày xưa, lúc thịnh thời, hiền sĩ đầy triều nhường nhau địa vị, cho nên dưới không sót nhân tài, trên không bỏ công việc, mà thành đời thịnh trị vui tươi. Đến như các quan đời Hán Đường, ai là không suy nhượng kẻ hiền tài, cất nhắc lẫn nhau, như Tiêu Hà(2) tiến Tào Tham, Nguy Vô Tri(3) tiến Trần Bình, Địch Nhân Kiệt(4) tiến Trương Cửu Linh, Tiêu Tung(5) tiến Hàn Hưu, tuy tài phẩm có cao thấp khác nhau, nhưng tất thảy đều được người để đảm đang nhiệm vụ.

      Nay trẫm vâng chịu trách nhiệm nặng nề, sớm khuya lo sợ, như gần vực sâu, chính vì cầu người hiền giúp việc mà chưa được người. Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại phu, từ tam phẩm(6) trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì trẫm sẽ tuỳ tài trao chức. Vả lại tiến hiền thì được thưởng, ngày xưa vẫn thế.

      Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng.

      Tuy nhiên, người tài ở đời vốn không ít, mà cầu tài không phải chỉ một đường, hoặc người nào có tài kinh luân mà bị khuất ở hàng quan nhỏ, không ai tiến cử, cùng người hào kiệt náu ở đồng nội, lẩn ở hàng binh lính, nếu không tự mình đề đạt thì trẫm bởi đâu mà biết được! Từ nay về sau, các bực quân tử, ai muốn đi chơi ta đều cho tự tiến. Xưa kia Mạo Toại thoát mũi dùi mà theo Bình Nguyên quân(7), Nịnh Thích gõ sừng trâu mà cảm ngộ Tề Hoàn công(8), nào có câu nệ ở tiểu tiết đâu?

      Chiếu này ban ra, phàm các quan liêu đều phải hết chức vụ, tiến cử hiền tài. Còn như những kẻ sĩ quê lậu ở xóm làng, cũng đừng lấy điều “đem ngọc bán rao”(9) làm xấu hổ, mà để trẫm phải than đời hiếm nhân tài.

(Bản dịch của Đào Duy Anh, Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập II, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, Hà Nội, 2000)

CHÚ THÍCH

(1) Chiếu cầu hiền tài: Theo Toàn thư và Cương mục thì tờ chiếu này ban bố vào khoảng tháng 6 năm Kỷ dậu (1429). Trong buổi đầu xây dựng nhà nước phong kiến, Lê Lợi một mặt phát triển chế độ khoa cử làm phương thức đào tạo quan lại chủ yếu, nhưng mặt khác vẫn sử dụng rộng rãi chế độ tiến cử, “cầu hiền” để kén chọn thêm quan lại.

(2), (3) Tiêu Hà, Nguy Vô Tri: Quan nhà Hán.

(4), (5) Địch Nhân Kiệt, Tiêu Tung: Quan nhà Đường.

(6) Tam phẩm: Trong chế độ phong kiến Trung Quốc và Việt Nam, phẩm cấp quan lại chia làm 9 bậc, cao nhất là nhất phẩm, thấp nhất là cửu phẩm. Quan lại từ tam phẩm trở lên là quan lại cao cấp.

(7) Bình Nguyên quân: Mao Toại là thực khách của Bình Nguyên quân nước Triệu thời Chiến quốc.

(8) Tề Hoàn công: Ninh Thích là người nước Vệ thời Xuân Thu.

(9) "Đem ngọc bán rao" (Huyễn ngọc cầu dụ): Ý nói tự đem khoe tài mình để cầu tiến dụng.

Câu 1 (0.5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài.

Câu 2 (0.5 điểm): Chủ thể bài viết là ai?

Câu 3 (1.0 điểm): Mục đích chính của văn bản trên là gì?  Chỉ ra những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản.

Câu 4 (1.0 điểm): Theo văn bản, khi có được nước rồi, việc đầu tiên vua cần làm là chọn người hiền tài về giúp cho đất nước. Để minh chứng cho luận điểm đó, người viết đã đưa ra dẫn chứng nào? Nhận xét cách nêu dẫn chứng của người viết.

Câu 5 (1.0 điểm): Thông qua văn bản trên, hãy nhận xét về phẩm chất của chủ thể bài viết.

1
23 tháng 1

### Câu 1 (0.5 điểm): **Phương thức biểu đạt chính** được sử dụng trong bài là **nghị luận**. --- ### Câu 2 (0.5 điểm): **Chủ thể bài viết** là **vua Lê Lợi**. --- ### Câu 3 (1.0 điểm): **Mục đích chính của văn bản**: Kêu gọi việc tiến cử và tự tiến cử người hiền tài để giúp vua Lê Lợi xây dựng đất nước. **Những đường lối tiến cử người hiền tài được đề cập trong văn bản**: - Các văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên đều phải cử người có tài, bất kể là ở triều đình hay thôn dã, đã xuất sĩ hay chưa. - Người có tài kinh luân mà bị khuất hoặc hào kiệt náu mình nơi làng quê, binh lính cũng có thể tự tiến cử. - Những người tiến cử được hiền tài sẽ được thưởng, tùy theo tài năng của người được tiến cử. --- ### Câu 4 (1.0 điểm): **Dẫn chứng minh chứng cho luận điểm**: Người viết nêu ra những tấm gương điển hình từ thời Hán và Đường: - Tiêu Hà tiến cử Tào Tham, Nguy Vô Tri tiến cử Trần Bình. - Địch Nhân Kiệt tiến cử Trương Cửu Linh, Tiêu Tung tiến cử Hàn Hưu. **Nhận xét về cách nêu dẫn chứng**: - Các dẫn chứng được chọn lọc kỹ lưỡng, có tính điển hình cao và phù hợp với bối cảnh nghị luận. - Tác giả không chỉ kể tên mà còn nhấn mạnh vai trò của việc tiến cử trong sự thành công của các triều đại, từ đó tăng tính thuyết phục. --- ### Câu 5 (1.0 điểm): **Nhận xét về phẩm chất của chủ thể bài viết**: - **Có trách nhiệm**: Vua Lê Lợi tự nhận trách nhiệm nặng nề trong việc trị quốc và luôn mong muốn tìm người tài giúp sức. - **Khiêm tốn và cầu thị**: Ông không câu nệ tiểu tiết, sẵn sàng chấp nhận cả những người tự tiến cử. - **Sáng suốt và công bằng**: Đưa ra chính sách thưởng phạt rõ ràng trong việc tiến cử hiền tài, dựa trên tài năng và đức độ. - **Quan tâm đến hiền tài**: Hiểu rõ vai trò quan trọng của nhân tài trong việc xây dựng đất nước và sẵn lòng trọng dụng người tài từ mọi tầng lớp.

21 tháng 1

Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp

21 tháng 1

yếm nắm

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm) Đọc văn bản sau:           Bến đò ngày mưa Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa. Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt, Mặc con thuyền cắm lại đậu trơ vơ.  Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo Vài quán hàng không khách đứng xo ro. Một bác lái ghé buồm vào hút điếu, Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho. Ngoài đường lội...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm)

Đọc văn bản sau:

          Bến đò ngày mưa

Tre rũ rợi ven bờ chen ướt át
Chuối bơ phờ đầu bến đứng dầm mưa.
Và dầm mưa dòng sông trôi rào rạt,
Mặc con thuyền cắm lại đậu trơ vơ. 

Trên bến vắng, đắm mình trong lạnh lẽo
Vài quán hàng không khách đứng xo ro.
Một bác lái ghé buồm vào hút điếu,
Mặc bà hàng sù sụ sặc hơi, ho.

Ngoài đường lội họa hoằn người đến chợ
Thúng đội đầu như đội cả trời mưa.
Và họa hoằn một con thuyền ghé chở,
Rồi âm thầm bến lại lặng trong mưa.

               (Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân, NXB Văn học, 2000, tr.192 - 193)

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ trên.

Câu 2. Đề tài của bài thơ này là gì?

Câu 3. Phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ mà em thấy ấn tượng trong bài thơ.

Câu 4. Bức tranh bến đò ngày mưa được tác giả miêu tả qua những hình ảnh nào? Những hình ảnh đó gợi cho em cảm nhận gì?

Câu 5. Qua bức tranh bến đò ngày mưa, bài thơ đã gợi lên tâm trạng, cảm xúc như thế nào?

2
16 tháng 3

Thể thơ 8 chữ

16 tháng 3

Đề tài quê hương

I. ĐỌC HIỂU (4 điểm) Đọc văn bản sau: TRUYỆN THẦN NÚI MINH CHỦ ĐỒNG CỔ     Theo truyện Báo cực thì thần là Minh Chủ Chiêu Cảm Linh Thần Đức Đại Vương, vốn là thần núi Đồng Cổ. Núi này ở xã Đan Nê Thượng, huyện Yên Định.     Xưa, Vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm thành, đến đóng quân ở Trường Yên, canh ba đêm đó nằm mơ thấy một dị nhân, mặc...
Đọc tiếp

I. ĐỌC HIỂU (4 điểm)

Đọc văn bản sau:

TRUYỆN THẦN NÚI MINH CHỦ ĐỒNG CỔ

    Theo truyện Báo cực thì thần là Minh Chủ Chiêu Cảm Linh Thần Đức Đại Vương, vốn là thần núi Đồng Cổ. Núi này ở xã Đan Nê Thượng, huyện Yên Định.

    Xưa, Vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm thành, đến đóng quân ở Trường Yên, canh ba đêm đó nằm mơ thấy một dị nhân, mặc nhung phục nói với Vua Thái Tông rằng: “Thần là thần núi Đồng Cổ, nghe Vua đi đánh phương Nam xin theo Vua để lập chiến công”. Vua trong giấc mơ cho phép thần đi theo. Dẹp xong Chiêm Thành, Vua phải hoàn về kinh đô, rồi ra lệnh cho quần thần dựng đền thờ ở chùa Từ Ân bên trái bờ sông ở Kinh sư. Khi Thái Tổ băng hà, Thái Tông theo di chiếu lên ngôi. Đêm ấy, ngài mơ thấy thần đến nói với mình rằng: “Ba người em là Dực Thánh Vương, Đông Chinh Vương và Vũ Đức Vương âm mưu làm phản”. Sáng sớm hôm sau, ba Vương đã phục binh ở trong Long thành, tiến công đến các cửa thành. Thái Tông sai Lê Phụng Hiểu đem quân chống giữ(1).

    Phụng Hiểu vốn là người Na Sơn, huyện Thanh Hóa, người cao 7 thước, râu ria rậm rạp, sức mạnh phi thường. Thời còn bé, có người ở giáp Lương Giang mượn sức ông để đánh nhau với người khác. Ông liền nhổ cây, bật cả rễ lên nên đối phương khiếp sợ. Lúc ba vương làm phản, Lê Phụng Hiểu vâng mệnh mở cửa thành, rút kiếm đến chỗ cửa Quảng Phúc và thét lớn: “Dực Thánh, Đông Chinh, Vũ Đức nhòm ngó ngôi vua, coi thường vua mới, vong ân, bội nghĩa, Phụng Hiểu tôi xin lấy đầu các ông dâng nộp!”. Rồi xông thẳng vào chém chết Vũ Đức Vương. Đông Chinh và Dực Thánh sợ hãi bỏ chạy, bọn tay chân đền tan tác. Nội loạn dẹp yên, y như thần đã báo mộng trợ giúp. Thái Tông liền phong cho thần làm “Thiên hạ Minh Chủ”. Mỗi năm đến ngày mồng 4 tháng 4, nhà vua hội họp trăm quan làm lễ thề ở đền thần. Nội dung lời thề như sau: “Làm bề tôi mà bất trung thì sẽ bị thần giết chết”. Từ đấy, thần được dân chúng hương khói hằng ngày.

    Còn như Lê Phụng Hiểu có công dẹp yên nội loạn, Lý Thái Tông sắc phong thưởng: “Trung nghĩa, anh dũng vượt xa Kính Đức đời Đường”(2). Về sau, ông lại theo vua đi đánh Chiêm Thành, có nhiều công tích to lớn, nức tiếng xa gần. Khi ông mất, được dựng đền thờ phụng. Các đời sau cũng phong tặng tước Vương.

(Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái – NXB Kim Đồng, 2019)

(1) Việt Sử Lược chép rằng: “Vua Lý Thái Tông húy là Đức Chánh, tên là Phật Mã (52 – 3), con trưởng của vua Thái Tổ, mẹ người họ Lê. Thái Tổ lên ngôi phong Phật Mã làm Khai Thiên Đại Vương và lập làm Thái tử. Năm Thuận Thiên thứ 11 (1020) Thái tử có công đi dẹp yên được các bọn giặc rợ. Lý Thái Tổ mất, quần thần vâng theo di chiếu, đến cung Long Đức mời Thái Tử lên ngôi. Lúc bấy giờ Dực Thánh Vương, Võ Đức Vương đều đem binh mai phục ở ngoài cửa Quảng Phúc muốn đánh lén. Vua từ cửa Tường Phù vào đến điện Càn Nguyên, binh ở ba phủ kéo đến đánh rất gấp. Vua sai Nguyễn Nhân Nghĩa chống cự, quân của ba phủ thất bại, Võ Đức Vương bị Lê Phụng Hiểu giết chết. Trong ngày ấy, vua lên ngôi trước linh cữu vua Thái Tổ, hạ lệnh đại xá tù tội, đổi niên hiệu, lấy năm Thuận Thiên thứ 19 (1028) là năm đầu hiệu Thiên Thành. Quần thần dâng tôn hiệu là: “Khai Thiên Thống Vận Tôn Đạo Qúy Đức Thánh Văn Quảng Võ Sùng Nhân Thượng Thiện Chính Lý Dân An Thần Phù Long Hiện Thể Nguyên Ngự Cực Ức Tuế Công Cao Ứng Chân Bửu lịch Thông Nguyên Chí Áo Hưng Long Đại Định Thông Minh Từ Hiếu Hoàng Đế”.

(2) Kính Đức: Tức Úy Trì Cung (585 – 658), danh tướng thời mạt Tùy, sơ Đường, tên là Cung, tên chữ là Kính Đức. Khi Lý Thế Dân (sau này là Đường Thái Tổ) bị vây khốn, Kính Đức liều mình cứu giúp chạy thoát. Từ đó Kính Đức trở thành bộ hạ mật thiết của Lý Thế Dân.

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Văn bản Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ thuộc thể loại gì?

Câu 2. Chỉ ra những chi tiết tưởng tượng kì ảo có trong văn bản Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ.

Câu 3. Xác định sự việc chính của văn bản Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ.

Câu 4. Việc hai lần Vua Lý Thái Tông mơ gặp thần núi Đồng Cổ trong văn bản Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ có ý nghĩa gì?

Câu 5. Chủ đề của văn bản Truyện thần núi Minh Chủ Đồng Cổ là gì?

0
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm) Đọc văn bản sau: VỤ MẤT TÍCH KÌ LẠ      Lược một đoạn: Mary Sutherland, một cô gái trẻ, đến gặp thám tử Sherlock Holmes để nhờ ông giúp tìm người yêu của mình, Hosmer Angel. Cô kể rằng cô đã gặp Hosmer tại một buổi khiêu vũ và họ đã nhanh chóng yêu nhau. Tuy nhiên, cha dượng của cô, ông Windibank, không ủng hộ mối quan hệ này. Hosmer đã đề nghị kết...
Đọc tiếp

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4 điểm)

Đọc văn bản sau:

VỤ MẤT TÍCH KÌ LẠ

     Lược một đoạn: Mary Sutherland, một cô gái trẻ, đến gặp thám tử Sherlock Holmes để nhờ ông giúp tìm người yêu của mình, Hosmer Angel. Cô kể rằng cô đã gặp Hosmer tại một buổi khiêu vũ và họ đã nhanh chóng yêu nhau. Tuy nhiên, cha dượng của cô, ông Windibank, không ủng hộ mối quan hệ này. Hosmer đã đề nghị kết hôn với Mary trước khi cha dượng cô trở về. Ông ta rất gấp rút và yêu cầu Mary hứa rằng cô sẽ luôn luôn trung thành với ông ta, bất kể có chuyện gì xảy ra.

     - Vậy là hôn lễ đã được dự tính cử hành vào ngày thứ sáu vừa qua?

     - Vâng, hôn lễ đã được dự tính cử hành ở nhà thờ St. Saviours, gần Kings Cross và sau đó chúng tôi sẽ dự bữa ăn trưa gia đình tại khách sạn St. Pancras. Hosmer đến nhà đón chúng tôi. Anh đỡ mẹ tôi và tôi lên chiếc xe ngựa có mui, còn anh thì nhảy lên một chiếc khác đang đậu gần đấy. Khi chiếc xe ngựa của anh ấy hiện ra, chúng tôi trông đợi anh Hosmer xuống xe, nhưng trông mãi chẳng thấy. Người đánh xe quay đầu nhìn vào bên trong xe: anh Hosmer đã biến mất.

     - Tôi có cảm giác rằng cô đã bị lừa gạt một cách hết sức bỉ ổi. - Holmes nói.

     - Ồ không, thưa ông. Anh ấy quá tốt và quá ngay thật. Này nhé! Suốt cả buổi sáng hôm đó, anh ấy không ngừng lặp đi lặp lại với tôi rằng dẫu cho có chuyện gì xảy ra, tôi phải luôn luôn trung thành với anh ấy, rằng dẫu có một biến cố bất ngờ nào chia cách hai chúng tôi, tôi phải luôn luôn nhớ rằng tôi là của anh ấy, và sớm hay muộn gì anh ấy cũng sẽ tìm lại tôi.

     - Theo ý cô thì Hosmer đã gặp tai nạn? Cô có cho cha dượng biết việc này không?

     - Có. Ông ấy cũng cho rằng có một điều gì đó đã xảy ra. Và ông ấy bảo đảm rằng chỉ trong thời gian ngắn, tôi sẽ được biết tin tức về Hosmer. Thưa ông, tại sao chuyện này lại có thể xảy ra?

     Lược một đoạn: Mary Sutherland cung cấp nhận dạng, 4 lá thư của Hosmer và địa chỉ cha dượng cho thám tử. Holmes xem xét các bức thư của Hosmer và phát hiện ra rằng chữ ký của ông ta cũng được đánh máy. Điều này có nghĩa là Hosmer có thể chối bỏ chữ ký của mình trong trường hợp bị đưa ra tòa về tội đơn phương hủy bỏ hôn ước. Holmes viết hai lá thư, 1 gửi cho một công ty ở trung tâm thương mại London, yêu cầu họ cho thông tin về người đàn ông tên là Hosmer Angel, 1 gửi cho cha dượng của Mary, yêu cầu ông ta đến gặp Holmes vào lúc 6 giờ chiều ngày mai.

     Khách là một người đàn ông vạm vỡ, cao trung bình, trạc 30 tuổi. Gương mặt vàng nhạt, trụi lủi, không có râu mép, râu cằm hay râu má gì cả. Ông ta có một vẻ dịu dàng giả tạo. Đôi mắt xám, rất linh hoạt và sắc sảo ném một cái nhìn dò hỏi về phía chúng tôi. Đoạn ông ta đặt nón lên chiếc tủ buýp-phê, hơi nghiêng mình một chút và ngồi xuống chiếc ghế gần nhất.

     - Thưa ông Windibank. Có phải lá thư đánh máy này là của ông không? 

     - Thưa ông, làm sao ông có thể tìm ra được anh chàng Hosmer.

     - Trái lại. Tôi sẽ tìm ra được ông Hosmer.

     - Điều đáng ngạc nhiên, là những máy đánh chữ cũng có cá tính riêng biệt của chúng! Có những chữ có vẻ mòn hơn những chữ khác, có những chữ chỉ mòn có một bên... Này ông, trong lá thư đánh máy của ông gửi cho tôi, tôi nhận thấy trên tất cả những chữ “e” đều có một vết nhòe nhỏ, và tất cả những chữ “t” đều có dấu gạch ngang hơi mờ. Tôi còn đếm được 14 đặc điểm khác, nhưng hai đặc điểm vừa kể, là nổi bật nhất.

     - Ở văn phòng, chúng tôi sử dụng cái máy chữ đó để đánh tất cả những thư tín của chúng tôi, chắc chắn là nó không còn được tốt lắm. - Trong khi trả lời, đôi mắt sắc sảo của ông ta nhìn Holmes đăm đăm.

     - Và bây giờ, tôi sẽ trình bày cho ông xem một trường hợp thật là thú vị: trong lá thư đánh máy của ông gửi cho tôi và bốn lá thư gửi cô Mary có điểm chung. Bên trên những chữ “e” đều có những vết nhòe nhỏ, và tất cả những chữ “t” đều có dấu gạch ngang không được rõ. Ông lấy chiếc kính lúp của tôi để xem, tôi sẽ chỉ cho ông thấy 14 đặc điểm khác mà tôi đã nói với ông lúc nãy.

     Ông Windibank liền đứng phắt lên và chụp lấy chiếc nón của ông ta. Đôi mắt sắc sảo của Windibank nhìn Holmes đăm đăm, rồi nói:

     - Ông Holmes, tôi không có thì giờ rảnh để nói những chuyện tầm phào! Nếu ông có thể bắt gặp được ông Hosmer thì hãy cứ bắt đi, rồi báo tin cho tôi biết.

     - Chắc chắn là như thế? - Holmes đáp, vừa lẹ làng đứng lên khoá trái cửa lại.

     - Ông nên biết rằng tôi đã bắt được Hosmer rồi.

     - Sao? Ở đâu? - Ông Windibank kêu lên bằng một giọng thảng thốt, như một con chuột bị sa bẫy.

     - Ô không sao... Không sao cả! - Holmes đáp bằng một giọng ngọt lịm - Ông Windibank, bây giờ ông không còn cách nào để thoát được nữa. Tất cả đều đã quá rõ.

     Ông Windibank ngồi phịch xuống. Gương mặt tái mét, trán ướt đẫm mồ hôi.

     - Pháp... pháp luật không thể làm gì được tôi! - Ông ta nói lắp bắp.

     - Có thể là pháp luật không làm gì được ông. Nhưng hành động của ông thật là vô cùng đê tiện, tàn nhẫn và ích kỷ...

     - Tôi sẽ kể lại sự việc từ đầu đến cuối và nếu tôi có sai chỗ nào thì ông cứ việc sửa: Người cha dượng của cô gái đã cải trang thành một người đàn ông tên là Hosmer để lừa cô gái. Hắn mang một cặp kính màu, đeo một bộ râu giả, và biến giọng nói bình thường của mình thành một giọng nói thì thầm êm dịu, ông ta đến dự buổi khiêu vũ, làm quen với cô gái và tự giới thiệu mình là Hosmer, thế là người cha dượng đã đóng vai trò một kẻ si tình cô con gái riêng của vợ mình, để gạt ra ngoài bất cứ anh chàng nào muốn lăm le tán tỉnh cô. Ông ta đã làm điều này vì muốn ngăn cản cô gái lập gia đình, vì như vậy ông ta sẽ không được hưởng số tiền 100 bảng mỗi năm từ cô gái nữa.

     Lược một đoạn: “Đúng là một tên đểu giả mặt dày!” – Holmes nói, rồi phá lên cười và buông mình xuống một chiếc ghế bành. – “Tên này trong tương lai gần sẽ còn phạm thêm trong nhiều tội ác nữa. Tôi thú thật rằng tôi không theo kịp được những suy diễn của anh vụ này. Holmes nói: “Này nhé, hai người đàn ông đó không bao giờ gặp mặt nhau cả. Khi một người xuất hiện thì người kia biến mất; đây là chi tiết rất quan trọng! Và rồi cặp kính màu, bộ râu giả, giọng nói khác lạ với giọng nói của một người bình thường... rồi những lá thư, chứng tỏ, người gửi chúng muốn che giấu chữ viết của mình mà cô gái đã quá quen thuộc. Và tôi loại bỏ tất cả những gì có thể ngụy tạo được: cặp kính màu, bộ râu, giọng nói, và gửi bản mô tả hình dạng đó đến công ty ông Windibank và được xác nhận đó chính là Windibank. Giản dị vậy thôi.

(Sherlock Holmes toàn tập, Arthur Conan Doyle,  NXB Văn học, 2015)

----------------------------------

* Arthur Conan Doyle (1859 - 1930) là một nhà văn người Scotland nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám Sherlock Holmes – được kể dưới điểm nhìn của Dr. Watson - Bạn đồng hành của Sherlock Holmes, tác phẩm được cho là một sáng kiến lớn trong lĩnh vực tiểu thuyết trinh thám. Các tác phẩm của ông bao gồm nhiều truyện khoa học giả tưởng, tiểu thuyết lịch sử, kịch...

Thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5 (trình bày ngắn gọn):

Câu 1. Xác định thể loại của văn bản trên.

Câu 2. Văn bản Vụ mất tích kì lạ có những nhân vật nào? Ai là nhân vật chính?

Câu 3. Điều gì cần làm sáng tỏ trong văn bản Vụ mất tích kì lạ?

Câu 4. Xác định chi tiết quan trọng, có ý nghĩa bước ngoặt để khám phá ra sự thật trong văn bản Vụ mất tích kì lạ?

Câu 5. Nhận xét về đặc điểm nổi bật của nhân vật thám tử Sherlock Holmes trong văn bản.

0
19 tháng 1

Bạn có thể cho mình bài thơ được không ạ

Bài hạt gạo làng ta