K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

26 tháng 3 2018

1. Hiệp ước Nhâm Tuất 5/6/1862
* Hoàn cảnh:
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, quân pháp thừa thắng, lần lượt chiếm các tỉnh Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Tình hình này làm cho triều đình phong kiến nhà Nguyễn rất hốt hoảng và lo sợ nên
triều đình đã kí với pháp bản hiệp ước Nhâm Tuất với nội dung:
- Triều đình nhà Nguyễn thừa nhận quyền cai quản của Pháp ở ba tỉnh miền Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn; mở ba cửa biển (Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên) cho Pháp vào buôn bán; cho phép người Pháp và Tây Ban Nha tự do truyền đạo Gia Tô, bãi bỏ lệnh cấm đạo trước đây; bồi thường cho Pháp một khoản chiến phí tương đương 288 vạn lạng bạc.
- Pháp sẽ trả lại thành Vĩnh Long cho triều đình chừng nào triều đình buộc được dân chúng ngừng kháng chiến......
=> Nhận xét:
- Triều đình đã chính thức đầu hàng, bức bột trước sự xâm lược của Pháp.
- Với việc làm đó, triều đình đã từ bỏ một phần trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống
Pháp đồng thời cũng thể hiện ý thức vì lợi ích riêng của triều đình phong kiến nên đã phản bội một phần lợi ích dân tộc.
2. Hiệp ước Giáp Tuất 15/3/1874
* Hoàn cảnh:
- Chiến thắng của ta ở Cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang cực độ còn quân và dân ta phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.
- Ngược lại, triều đình phong kiến nhà Nguyễn lo sợ nên đã vội vã kí với pháp Hiệp ước Giáp Tuất, trước mắt để pháp rút khỏi Bắc Kì.
* Nội dung:
- Triều đình chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
- Quân Pháp sẽ rút hết quân ở Bắc Kì.
=>Nhận xét:
- Triều đình sớm tỏ ra hoang mang, giao động vô căn cứ nên lo sợ, dẫn đến những việc làm ngu ngốc và tội lỗi.
- Với nội dung kí kết đó, triều đình đã tiếp tục phản bội lợi ích dân tộc, lợi ích của nhân dân, tạo đà cho quân Pháp có cơ hội lấn tới trên con đường xâm lược nước ta.
3. Hiệp ước Quý Mùi:
* Hoàn cảnh:
- Chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai làm quân Pháp thêm hoang mang dao động. Chúng đã toan bỏ chạy nhưng triều đình lại chủ trương thương lượng với Pháp.
- Sau khi có thêm viện binh, lại nhân cơ hội vua Tự Đức qua đời, triều đình nhà Nguyễn lục đục, thực dân Pháp chớp ngay lấy cơ hội và quyết định tấn công thẳng vào cửa ngõ kinh thành Huế Đó là cửa biển Thuận An.
- Ngày 20/8/1883 sau 2 ngày bắn pháo, quân Pháp đổ bộ lên Thuận An.Triều đình hoảng hốt xin đình chiến.
- Cao ủy Pháp lên ngay Huế, đưa ra bản hiệp ước thảo sẵn, buộc triều đình chấp nhận và kí ngày 25/8/1883. Hiệp ước mang chính tên viên Cao ủy Pháp: Hiệp ước Hac - măng (còn gọi là hiệp ước Quý Mùi) với nội dung:
+ Triều đình Huế Chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và Trung Kì,cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì để nhập vào đất Nam Kì thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh_Nghệ_Tỉnh được sáp nhập vào Bắc Kì .Triều đình chỉ được cai quản vùng đất Trung Kì,nhưng mọi việc đều phải thông qua viên khâm sứ Pháp ở Huế.Công sứ Pháp ở các tỉnh Bắc Kì thường xuyên kiểm soát những công việc của quan lại triều đình,nắm cá quyền trị an và nội vụ.Mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.Triều đình Huế phải rút quân đội ở Bắc Kì về Trung Kì.
=> Nhận xét:
- Tuy nội dung hiệp ước chỉ nói đến mức độ bảo hộ của Pháp ở Bắc Kì và trung Kì nhưng thực chất quyền đối nội, đối ngoại của triều đình đã phụ thuộc vào Pháp và do Pháp quyết định. Vì vậy, thực chất hiệp ước 1883 đã chính thức chấm dứt sự tồn tại của triều đình phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lạp. Tuy vẫn còn tồn tại trên hình thức nhưng triều đình phong kiến chỉ còn là tay sai cho Pháp.
=> Nhận xét: Với hiệp ước 1883, triều đình phong kiến nhà Nguyễn không những tự mình làm mất đi sự độc lập của một chính quyền nhà nước phong kiến mà qua đó còn thể hiện sự phản bội trắng trợn của triều đình phong kiến và bè lũ vua tôi nhà Nguyễn với lợi ích của dân tộc.
4. Hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884
* Hoàn cảnh
- Sau hiệp ước 1883, nhân dân cả nước một mặt phẫn nộ trước thái độ đầu hàng của triều nguyễn, mặt khác càng căm thù quân xâm lược Pháp nên soi nổi đứng lên kháng chiến.
- Trước hoàn cảnh đó, chính quyền thực dân Pháp chủ trương làm dịu bớt tình hình căng thẳng của nhân dân và tỏ ra rộng lượng với triều đình để lấy lòng bọn tay sai nên đã dẫn đến việc kí kết hiệp ước Pa - tơ - nốt ngày 6/6/1884

=> Nhận xét :
- Việc kí kết hiệp ước đó không làm thay đổi căn bản tình hình nước ta, kẻ thù vẫn nham hiểm và đô hộ nước ta, triều đình vẫn đầu hàng, can tâm làm tay sai cho giặc.
=> Kết luận chung:
- Từ các bản hiệp ước nói trên ta đã có dủ bằng chứng kết luận từ năm 1858 - 1884, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng từng bước tiến tới đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược Pháp.

26 tháng 3 2018

Saya chúc bạn học tốt ^.^

26 tháng 3 2018

Quy mô, địa bàn hoạt động rộng lớn, gồm 4 tỉnh bắc Trung kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
- Trình độ tổ chức quy cũ, gồm 15 quân thứ do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.
- Thời gian tồn tại dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương.
- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương.

_ ĐÚNG THÌ XIN 1 LIKE Ạ .

26 tháng 3 2018

Vì :
+ Đây là cuộc khởi ngĩa có quy mô lớn, địa bàn rộng.
+Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là các văn thân các tỉnh Thanh- Nghệ- Tỉnh.
+ Thời gian tồn tại 10 năm.
+Tính chất ác liệt chống Pháp và chính quyền phong kiến bù nhìn, tính chất cuộc khởi nghĩa có sự thay đổi : đó là sự xung đột giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp và chính quyền phong kiến tay sai , tức nội dung dân tộc của cuộc khởi nghĩa đã thể hiện rõ, chứ không còn là xung đột giữa đế quốc và phong kiến.

Nguyễn Trường Tộ (1828- 1871) sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo, theo đạo Thiên Chúa. Ông sinh ra và lớn lên khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đã hình thành và đang vươn lên khắp mọi nơi để xâm chiếm thuộc địa. Giữa thế kỷ XIX, những cuộc xâm lăng của thực dân phương Tây vào các nước phương Đông ngày càng được đẩy mạnh. Sự xâm lăng này đã đánh mạnh vào thành trì phong kiến của các nước phong kiến phương Đông, phá vỡ cấu trúc cũng như nền quân chủ chuyên chế tồn tại hàng ngàn năm.

Nguyễn Trường Tộ ngay từ nhỏ đã rất thông minh, khi còn đi học đã nổi tiếng về tài uyên bác (được mọi người gọi là “Trạng Tộ”). Ông có một kiến thức Hán học rất phong phú. Trong thời gian đi học, ở đâu ông cũng được thầy khen giỏi. Ông là người rất chú trọng lối học thực dụng tìm hiểu những điều thực tế xung quanh. Trong học tập ông còn đóng thêm một cuốn sổ nhỏ để ghi chép những điều mới lạ khi tai nghe mắt thấy và những điều xung quanh, suy nghĩ của riêng mình. Nguyễn Trường Tộ không thích lối học văn chương khoa cử đương thời, đó cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến ông không dự một kỳ thi nào (mặt khác do ông là người công giáo nên không được dự thi) nhưng ông cũng học thuộc các kinh chuyện và viết văn rất hay.

Năm Ất Mão 1855, Giám mục người Pháp tên là Go- Chi- Ê (tên Việt Nam là Ngô Gia Hậu) mời ông dạy tiếng Hán cho chủng viện xã Đoài. Thấy Nguyễn Trường Tộ thông minh, giám mục người Pháp liền dạy cho ông chữ Pháp và một vài môn phổ thông. Có thể nói đây là lần đầu tiên Nguyễn Trường Tộ được tiếp xúc với nền văn minh phương Tây, cũng là cái mốc đánh dấu sự phát triển nhận thức của Nguyễn Trường Tộ đã vượt lên trên tư tưởng của các nhà nho đương thời. Đối với những môn học mới này, ông học rất tiến bộ, được giám mục người Pháp hết sức khen ngợi, cho ông đi thăm Hương Cảng, Singapo, Roma... Năm Mậu Tuất 1858, khi triều đình Huế ban lệnh “cấm đạo” gay gắt, giám mục người Pháp liền đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp và gửi ông lưu học ở Paris hơn 2 năm. Đây là thời gian Nguyễn Trường Tộ tiếp xúc với nền văn minh phương Tây. Thời gian hơn 2 năm ở Pháp đã giúp ông hiểu biết khá nhiều điều mới lạ, những cái hay cái đẹp của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Đấy là xu hướng tất yếu lúc bấy giờ.

Với hoàn cảnh của bản thân như vậy, đồng thời dưới tác động mạnh mẽ của yếu tố thời đại và dân tộc, Nguyễn Trường Tộ đã sớm hình thành trong mình tư tưởng cải cách duy tân đất nước. Với tấm lòng yêu nước thiết tha vủa mình, ông chỉ mong làm sao cho dân giàu nước mạnh, làm sao giữ được chủ quyền của dân tộc, tránh nguy cơ mất nước. Trước tình hình xã hội lúc bấy giờ càng làm cho ông nung nấu thêm tư tưởng duy tân đất nước.

Sau hơn 2 năm du học ở Pháp. Năm Tân Dậu 1861, Nguyễn Trường Tộ về đến Sài Gòn. Lúc này thực dân Pháp đã đánh chiếm Gia Định, ông bị bắt đưa vào làm phiên dịch cho chúng. Lúc đó, ông nhận thấy rằng, chúng ta chưa có đủ điều kiện, khả năng để chống Pháp, cho nên ông chủ trương muốn hòa với địch. Chính vì vậy mà ông mới làm việc cho Pháp. Ông muốn giúp triều đình, góp một phần trong việc giảng hòa. Việc làm trên đây của ông đã gây cho sự nghiệp chính trị những hậu quả tai hại. Triều đình nhà Nguyễn vốn đã nghi ngờ ông là người công giáo theo giặc, giờ đây nhà Nguyễn lại có cớ để nghi ngờ ông, tất nhiên khó mà tiếp thu ý kiến của ông sau này.

Trong thời gian ở Sài Gòn, ông nhận lời của hội truyền giáo đứng đốc công xây dựng nhà thờ và nhà tu kín ở Sài Gòn, sau đó ông trở về quê hương Nghệ An. Năm Giáp Tý 1864, Nguyễn Trường Tộ được một cơ quan nghiên cứu của Anh mời sang, nhưng do triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận nên ông không được đi.

Tháng 9 năm Bính Dần 1866, triều đình Huế sai Nguyễn Trường Tộ cùng giám mục Gô- Chi- Ê và đạo trưởng Nguyễn Điền sang Pháp để mược giáo sư, kỹ thuật gia và mua máy móc, sách vở... về lập một trường kỹ thuật theo lối phương Tây.

Trong thời gian ở Pháp, ông đã gửi cho triều đình một bản điều trần rất quan trọng và đầy đủ nhất của ông. Đó là bản “Tế cấp bát điều”, nội dung của bản điều trần này vô cùng phong phú. Nhưng lúc bấy giờ tình hình chiến sự của ta rất căng thẳng, quân Pháp đã mở rộng chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Trước tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn vô cùng hoang mang lo sợ và nghi ngờ lung tung, bèn ra lệnh triệu tập luôn cả phái đoàn của Nguyễn Trường Tộ đang ở Pháp về trước thời hạn, chính vì vậy mà việc mở trường kỹ nghi bị bỏ dở.

Tháng 4 năm Mậu Thìn 1868, Nguyễn Trường Tộ mạnh dạn dâng sớ xin triều đình đừng gửi sứ bộ sang Pháp để xin chuộc lại Nam Kỳ lục tỉnh nữa vì ông biết rằng làm như vậy sẽ tốn công vô ích. Ông cho rằng, thời cơ lấy lại Nam Kỳ lúc đó chưa có, ông đề nghị triều đình hãy chuẩn bị thời cơ để lấy lại nước và gấp rút duy tân thì hơn.

Cuối năm Canh Ngọ 1870, ông xin triều đình cho vào Nam để chuẩn bị một cuộc đột kích vào Gia Định, vì ông dự đoán nền đế chế thứ hai sẽ sụp đổ. Đây là lần đầu tiên, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ tách khỏi tư tưởng chủ hòa của mình. Ông cho rằng cách mạng Pháp sẽ bùng nổ và đề nghị triều đình phải nắm lấy thời cơ này để đoạt lại Nam Kỳ. Nhưng triều đình Huế, đứng đầu là vua Tự Đức, đã không biết nắm lấy thời cơ để chiến đấu quyết liệt với thực dân Pháp, thu hồi lại Nam Kỳ, mà ngược lại còn viết thư chia buồn với soái phủ Pháp ở Nam Kỳ. Còn vấn đề cải cách của Nguyễn Trường Tộ thì chỉ được thự hiện một vài chi tiết nhỏ, lặt vặt, không đủ để cứu vãn tình thế, nguy cơ mất nước. Trong năm 1871, Nguyễn Trường Tộ vẫn kiên trì gửi thêm các điều trần đề nghị cải cách duy tân đất nước, đề nghị mở cửa thông thương với nước ngoài. Cho đến ngày 10- 10- 1871, sau thời gian dài bị bệnh nặng (ung thư ruột), Nguyễn Trường Tộ đã qua đời ở tuổi 43, ông đã để lại những bản điều trần, những đề nghị cải cách dở dang chưa thực hiện được.

Mặc dù chỉ sống một cuộc đời ngắn ngủi, nhưng với những vấn đề cải cách duy tân đất nước to lớn của mình, Nguyễn Trường Tộ đã có một vai trò rất quan trọng trong lịch sử cận đại Việt Nam. Ông là một trong những người mở đầu cho xu hướng duy tân đất nước ở nước ta. Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ có hệ thống và toàn diện, chứng tỏ một điều rằng, ông là người thiết tha yêu nước, có trình độ học vấn uyên thâm, có tư tưởng tiến bộ vượt lên trên tư tưởng phong kiến lạc hậu, cổ hủ lúc bấy giờ. Những đề nghị, cải cách của Nguyễn Trường Tộ gồm tất cả những mặt như kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa- xã hội.

5 tháng 4 2019

cải cách cuộc nguyễn trường tộ toàn diện ,đề cập đến nhiều vấn đề:chính trị,pháp luật,tôn giáo,quân sự, ngoại giao,giáo dục,kinh tế.... để đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa

26 tháng 3 2018

Ngay khi quân Pháp kéo đến Hà Nội, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.
Thấy lực lượng của địch ở Hà Nội tương đối yếu, quân ta khép chặt vòng vây. Ngày 21 - 12 - 1873, khi quân Pháp đánh ra cầu Giấy, chúng đã bị đội quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích. Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan thực dân và binh lính bị giết tại trận.
Chiến thắng cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang, còn quân dân ta thì phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.
Giữa lúc đó, triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất (15 - 3 - 1874). Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, còn triều đình thì chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
Hiệp ước năm Giáp Tuất đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại của Việt Nam.

26 tháng 3 2018

Trả lời:

Ngay khi quân Pháp kéo đến Hà Nội, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.
Thấy lực lượng của địch ở Hà Nội tương đối yếu, quân ta khép chặt vòng vây. Ngày 21 - 12 - 1873, khi quân Pháp đánh ra cầu Giấy, chúng đã bị đội quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích. Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan thực dân và binh lính bị giết tại trận.
Chiến thắng cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang, còn quân dân ta thì phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.
Giữa lúc đó, triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất (15 - 3 - 1874). Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, còn triều đình thì chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
Hiệp ước năm Giáp Tuất đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại của Việt Nam.

27 tháng 3 2018

Trình bày những nét chính về cuộc khởi nghĩa của quân dân hà nội và các tỉnh đồng bằng bắc kì ?

Ngay khi quân Pháp kéo đến Hà Nội, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.
Thấy lực lượng của địch ở Hà Nội tương đối yếu, quân ta khép chặt vòng vây. Ngày 21 - 12 - 1873, khi quân Pháp đánh ra cầu Giấy, chúng đã bị đội quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích. Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan thực dân và binh lính bị giết tại trận.
Chiến thắng cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang, còn quân dân ta thì phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.
Giữa lúc đó, triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất (15 - 3 - 1874). Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, còn triều đình thì chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.
Hiệp ước năm Giáp Tuất đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại của Việt Nam.

11 tháng 5 2018

Phải kiên quyết chống giặc đến cùng, không nên từng từng mà đầu hàng giặc, chịu thua giặc. Chỉ cần có niềm tin quyết thắng, cùng sự đoàn kết của nhân dân và những người cấp trên , và phải tìm ra những đường lối đấu tranh đúng đắn thì chúng ta có thể bảo vệ độc lập, chủ quyền thiên liêng của Tổ quốc hiên nay.