Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Tri thức Ngữ văn SVIP
VĂN BẢN NGHỊ LUẬN
1. Tính thuyết phục của lí lẽ, bằng chứng trong văn bản nghị luận
– Để tạo nên sức hấp dẫn và tính thuyết phục cho một văn bản nghị luận, cần xây dựng hệ thống lí lẽ và bằng chứng một cách phù hợp, chính xác và đầy đủ.
– Trước hết, tính thuyết phục của lí lẽ thể hiện qua việc soi chiếu vấn đề từ nhiều góc độ, phương diện. Lí lẽ có những cơ sở vững chắc (từ lí thuyết và thực tiễn) để làm điểm tựa cho lập luận. Các lí lẽ cần được triển khai một cách logic, có sự liên kết chặt chẽ, bảo đảm đủ cơ sở và kết luận.
– Tiếp theo, tính thuyết phục của bằng chứng phụ thuộc vào việc lựa chọn dẫn chứng tiêu biểu, cụ thể và xác thực, góp phần làm rõ và minh chứng cho các lí lẽ đã nêu.
– Cuối cùng, hiệu quả thuyết phục của cả lí lẽ và bằng chứng còn được nâng cao nhờ cách diễn đạt sinh động, độc đáo, giàu tính biểu cảm và hùng biện, từ đó tác động mạnh mẽ đến nhận thức và cảm xúc của người đọc.
Câu hỏi:
@205824442810@
Câu hỏi:
@205824443453@
Câu hỏi:
@205824444505@
2. Yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự trong văn bản nghị luận
– Việc đưa các yếu tố thuyết minh, miêu tả và tự sự vào văn bản nghị luận góp phần giúp người đọc hình dung rõ hơn về luận đề và các bằng chứng được trình bày.
– Yếu tố thuyết minh có vai trò cung cấp những tri thức khách quan, chính xác về nguồn gốc, cấu tạo, chức năng, vai trò hoặc ý nghĩa của đối tượng đang được bàn luận.
Ví dụ:
Bản sắc là tất cả những gì đặc trưng cho dân tộc Việt Nam, tất cả những gì làm cho người Việt chúng ta khác với mọi tộc người khác trên thế giới. Đó trước hết là tiếng Việt, thứ ngôn ngữ do cha ông để lại và được chia sẻ bởi các cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đó là những thành tựu văn hoá của chúng ta. Là trống đồng, là tượng chùa Tây Phương, là kho tàng dân ca, kho tàng văn học nghệ thuật mà tiêu biểu là "Truyện Kiều", là hệ thống giá trị của chúng ta, trong đó có tình yêu quê hương xứ sở, có đời sống tâm linh phong phú với việc thờ cúng tổ tiên theo cách của riêng mình...
(Nguyễn Sĩ Dũng, Những nghịch lí của thời gian, NXB Thời đại, Hà Nội, 2011)
– Yếu tố miêu tả giúp làm nổi bật những đặc điểm, tính chất tiêu biểu của con người, sự vật, hiện tượng hoặc bối cảnh có liên quan đến vấn đề nghị luận, từ đó tăng tính sinh động và trực quan cho lập luận.
Ví dụ:
Sẽ là hơi đơn giản nếu nghĩ rằng trong cuộc sống này, chỉ con người mới cất lên tiếng nói. Thiên nhiên quanh ta cũng có tiếng nói riêng của nó. Lắng nghe, ta sẽ nhận ra những tiếng thì thầm của lá rơi khẽ khàng trước ngõ, của giọt sương long lanh lăn nhẹ trên tàu tiêu, của những tiếng chim lẩn rúc trong khóm cây, của gió núi ngàn năm vọng sâu vào từng thớ đá,… Lắng nghe, ta sẽ thấy có cả tiếng thở dài đầy bất lực của rừng cây, tiếng lá xạc xào run rẩy khi những thân cây bị đốn hạ, tiếng kêu khe khẽ đầy sự hãi của những loài thú đang cố ẩn mình trốn tránh con người,…
(Trích Lắng nghe những tiếng thì thầm của cuộc sống, Ngữ văn 11, sách Kết nối tri thức với cuộc sống, tr.92)
– Yếu tố tự sự tái hiện lại các sự việc, tình huống cụ thể gắn liền với luận đề, luận điểm hoặc bằng chứng, qua đó làm cho lập luận thêm sinh động và dễ thuyết phục.
Ví dụ:
Ngày nay, người ta thường nói nhiều đến sự xung đột giữa chiếc xe Lếch-xớt với cây ô liu. Chiếc xe Lếch-xớt đại diện cho sự hiện đại và sự toàn cầu hoá. Cây ô liu đại diện cho bản sắc và cho truyền thống. Có vẻ như toàn cầu hoá đang áp đặt vô số những chuẩn mực chung cho mọi tộc người. Các chuẩn mực về kĩ thuật, về công nghệ thông tin và truyền thông, về thương mại, về đầu tư,... tất cả là chung và tất cả những cái chung đang ngày một nhiều thêm lên. Cái chung nhiều thêm lên, thì cái riêng sẽ bị giảm bớt đi. Đó là một nguy cơ hoàn toàn có thật. Tuy nhiên, chiếc xe Lếch-xớt và cây ô liu không nhất thiết bao giờ cũng phải xung đột và triệt tiêu lẫn nhau. Ngược lại, chiếc xe Lếch-xớt vẫn có thể tạo điều kiện cho việc bảo tồn cây ô liu và cây ô liu vẫn có thể trang điểm cho chiếc xe Lếch-xớt. Việc hội nhập và việc giữ gìn bản sắc cũng vậy. Không có hội nhập, nghề múa rối nước, nghề thổ cẩm của chúng ta chắc sẽ rất khó phát triển. Ngược lại, các nhà hàng, khách sạn cao cấp chắc cũng sẽ có ít sức hấp dẫn đối với khách du lịch nước ngoài, nếu thiếu sự hiện diện của hồn văn hoá Việt.
(Nguyễn Sĩ Dũng, Những nghịch lí của thời gian, NXB Thời đại, Hà Nội, 2011)
– Tuy nhiên, việc sử dụng các yếu tố thuyết minh, tự sự, miêu tả cần phục vụ mục tiêu trung tâm của văn bản nghị luận: Làm rõ và củng cố quan điểm, ý kiến của người viết, từ đó thuyết phục người đọc một cách hiệu quả.
Câu hỏi:
@205824445705@
Câu hỏi:
@205824446749@
3. Nhan đề của văn bản nghị luận
Câu hỏi:
@205824447751@
– Để tăng sức thuyết phục và tạo dấu ấn, người viết có thể lựa chọn những nhan đề độc đáo, gợi cảm xúc, kích thích sự quan tâm và suy ngẫm của người đọc.
Ví dụ: Tác giả Nguyễn Sĩ Dũng có một bài viết đặt tên là “Bản sắc là hành trang”:
+ Nhan đề “Bản sắc là hành trang”: “Bản sắc” là nét riêng, “hành trang” là những điều có thể đem theo mãi mãi. “Bản sắc là hành trang” là những nét riêng biệt, đặc sắc riêng của dân tộc ta nên được đem theo, giữ gìn mãi mãi.
+ Nhan đề này cho biết vấn đề tác giả bàn luận trong văn bản là việc bảo tồn, phát huy và giữ gìn bản sắc dân tộc.
+ Vấn đề ấy có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập, nơi những điều mới mẻ, hiện đại có nguy cơ xóa bỏ hoàn toàn những nét riêng biệt của mỗi dân tộc.
+ Nhan đề còn nhấn mạnh mục đích viết của văn bản là bàn luận về bản sắc dân tộc và khuyến khích con người gìn giữ những nét riêng của dân tộc, đất nước.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây