Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường: đặc điểm và tác dụng SVIP
I. LÍ THUYẾT
− Việc phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường có khả năng gây được ấn tượng thẩm mĩ tích cực cho độc giả, giúp họ khám phá thêm được những tầng nghĩa phong phú của văn bản.
− Những hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường hay gặp trong sáng tác văn học bao gồm:
+ Tạo ra những kết hợp từ trái logic nhằm "lạ hoá" đối tượng được nói tới.
VD: Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
➜ Xuân Diệu trong Vội vàng đã kết hợp từ "thâu" (ý chỉ sự xuyên suốt trong một khoảng thời gian nhất định) với "một cái hôn" nhằm gây ấn tượng với bạn đọc và nhấn mạnh khát khao được chìm đắm, được tận hưởng trọn vẹn từng khoảnh khắc, cảm xúc của "một cái hôn".
+ Sử dụng hình thức đảo ngữ để nhấn mạnh một đặc điểm nào đó của đối tượng được miêu tả.
VD: Lác đác bên sông chợ mấy nhà
➜ Bà Huyện Thanh Quan trong Qua Đèo Ngang đã sử dụng hình thức đảo ngữ (đảo tính từ "lác đác" lên đầu câu) để nhấn mạnh khung cảnh thưa thớt, hoang vắng ở Đèo Ngang.
+ Cung cấp nét nghĩa mới cho từ ngữ nhằm mang đến những phát hiện bất ngờ về đối tượng được đề cập.
VD: Cột đèn rớm điện/ Là chiều Bích Câu
➜ Trong bài thơ Chiều Bích Câu, Lê Đạt kết hợp "chiều" với "Bích Câu" nhằm phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường để tạo ra cho người đọc những ấn tượng đặc biệt về không gian buổi chiều tối.
+ Bổ sung chức năng mới cho dấu câu (khi trình bày văn bản trên giấy).
VD: Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ,/ Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya
➜ Trong bài thơ Buồn trăng, Xuân Diệu đã đặt dấu hai chấm ở giữa dòng thơ để xác lập mối tương quan giữa hai vế: Hoa bưởi thơm rồi và đêm đã khuya; đồng thời nhấn mạnh không gian được khắc hoạ trong câu thơ − Khi trời về khuya cũng là lúc hoa bưởi đượm hương, bắt đầu lan toả trong không gian tĩnh lặng.
− Đối với nhà văn, việc phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường phải được cân nhắc kĩ và được thực hiện một cách có điều kiện, tránh làm rối loạn những quy ước chung, gây khó khăn cho việc giao tiếp bằng ngôn ngữ.
− Đối với người đọc:
Câu hỏi:
@205785509335@
− Bên cạnh đó, người đọc cũng cần xác lập được tiêu chí đánh giá các hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường. Một sự "phá vỡ" chỉ được thừa nhận là có giá trị khi đạt được các yêu cầu sau:
+ Có tính thẩm mĩ, khơi dậy được cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc.
+ Thể hiện được nét độc đáo trong cách quan sát, miêu tả, thể hiện đối tượng của người viết.
+ Bổ sung, làm phong phú thêm các phương thức biểu đạt của ngôn ngữ chung.
+ Không làm rối loạn các quy ước ngôn ngữ đã được cộng đồng thừa nhận hoặc chỉ thực hiện sự phá vỡ trong điều kiện được kiểm soát.
II. THỰC HÀNH
1. Chỉ ra nét độc đáo, khác lạ trong kết hợp từ "buồn điệp điệp" ở câu mở đầu bài thơ Tràng giang (Gợi ý: Tìm những kết hợp từ khác có "điệp điệp" nhưng mang tính phổ biến hơn để so sánh với trường hợp đã nêu).
− Những kết hợp từ có từ "điệp điệp" thường được dùng trong đời sống là: quân đi điệp điệp, sóng vỗ điệp điệp, núi non điệp điệp.
− Nhận xét:
Câu hỏi:
@205784630976@
2. Phân tích lí do khiến cụm từ "sâu chót vót" trong bài thơ Tràng giang gây được ấn tượng đặc biệt với người đọc.
− Những kết hợp từ có từ "sâu" hoặc từ "chót vót" thường được dùng trong đời sống là: sâu thăm thẳm, sâu hun hút, cao chót vót,...
− Nhận xét: Tính từ "sâu" được dùng để mô tả sự tụt xuống hoặc hướng nhìn xuống dưới để đo khoảng cách giữa vị trí đứng của người nhìn với đáy của đối tượng được quan sát, gần như không thể kết hợp với "chót vót" − vốn dùng để miêu tả những đối tượng tồn tại ở trên cao hay cách xa chỗ đứng của người nhìn ở phía dưới. Trong câu thơ "Nắng xuống, trời lên sâu chót vót", Huy Cận dùng từ "lên" để mô tả động thái ngước nhìn lên cao của nhân vật trữ tình. Nhưng khi nhìn lên, nhân vật trữ tình ngay lập tức rơi vào trạng thái chới với, rợn ngợp. Như vậy, kết hợp "sâu" với "chót vót" chính là một lựa chọn nghệ thuật thoả đáng, có khả năng truyền đạt một cách trọn vẹn, xuất sắc ấn tượng tổng hợp về các động thái và cảm giác nói trên.
3. Hãy nhận diện và phân tích ý nghĩa của hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường được thể hiện trong hai câu thơ sau (trích Tràng giang):
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Câu hỏi:
@205784694213@
Câu hỏi:
@205784944537@
4. Phân tích giá trị biểu đạt của dấu hai chấm ở câu thơ "Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa." trên cơ sở liên hệ đến chức năng thông thường của dấu hai chấm trong văn bản.
➜ Dấu hai chấm xác lập tương quan đồng đẳng giữa hai vế trong câu: chim nghiêng cánh nhỏ và bóng chiều sa. Từ tương quan này, có thể liên tưởng đến chim nghiêng cánh nhỏ là tín hiệu hiển nhiên cho biết thời gian đã ngả về hoàng hôn. Theo đó, ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh được tô đậm, hình ảnh không phải là kết quả của sự ghi nhận thuần tuý thị giác mà là của suy nghiệm và nó xuất hiện theo logic suy nghiệm.
5. Trong bài Tì bà của Bích Khê, hai câu thơ cuối được tác giả viết như sau:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
(Bích Khê, Tinh huyết, Trọng Miên xuất bản, 1939)
Ở một số bản in về sau, hai câu thơ trên đã có một biến đổi:
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
(Thơ Bích Khê, Sở Văn hoá và Thông tin Nghĩa Bình, 1988)
Xét theo định hướng thực hành tiếng Việt của bài học, theo bạn, nguyên nhân của sự biến đổi nêu trên có thể là gì? Dựa vào bản in bài thơ năm 1939, hãy làm rõ sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ ở điểm này.
− Suy đoán nguyên nhân sự sai biệt trong việc ghi (hay in) câu thơ của Bích Khê:
Câu hỏi:
@205785232143@
− Nhận xét về hiệu quả nghệ thuật của việc nhà thơ cố tình gây ấn tượng cho người tiếp nhận bằng cách phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường:
+ Kết quả việc ghi khác nhau về câu thơ đã tạo ra hai phương án diễn đạt mà nhà thơ có thể lựa chọn. Theo cái nhìn khách quan, mỗi phương án đều có giá trị riêng, đáng được chọn, tuỳ theo việc tác giả muốn triển khai bài thơ theo hướng nào. Nếu hướng đến việc phô diễn cảm xúc một cách trực tiếp theo kiểu của thơ lãng mạn, có thể chọn "phương án" thứ hai (Ô hay). Nếu hướng đến việc thể hiện trạng thái tồn tại mập mờ của sự vật theo cách cảm nhận của một nhà thơ tượng trưng, có thể chọn "phương án" thứ nhất (Ô!).
+ Lưu ý: Hay buồn vương cây ngô đồng không áp đặt nhận xét về sự vật, hiện tượng mà chỉ chú ý nêu cảm giác chủ quan của nhân vật trữ tình trước sự vật, hiện tượng đó.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây