Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Luyện tập Bài ca ngất ngưởng SVIP
Về tác giả Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất, toàn tài của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. Ông không chỉ được biết đến là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc dưới triều Nguyễn, mà còn là nhà thơ lớn, nhà tư tưởng giàu bản lĩnh, nhà cải cách kinh tế thực tiễn, để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông sinh ra tại Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trong một gia đình có truyền thống nho học, quê gốc tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, yêu thích thơ văn và có chí lập công danh. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông gặp không ít trắc trở. Mãi đến tuổi 42, ông mới đỗ Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An). Đây được xem là bước ngoặt đưa ông bước vào con đường làm quan và phụng sự triều đình.
Từng trải qua nhiều đời vua từ Gia Long đến Tự Đức, Nguyễn Công Trứ giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, Bố chánh sứ, Tổng đốc, Thượng thư và cuối cùng là Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên, con đường làm quan của ông không bằng phẳng. Có những thời điểm ông được thăng chức liên tục nhờ công lao hiển hách trong quân sự và kinh tế, nhưng cũng có lúc bị giáng chức, thậm chí bị cách chức, sung làm lính thú. Dù ở địa vị nào, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững khí chất cương trực, sống thanh liêm, trung nghĩa và luôn tận tụy vì lợi ích của đất nước.
Là một nhà nho nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ bút nghiên. Ông từng cầm quân trấn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833), giặc Khánh (1835), và góp phần trong cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1841 – 1845). Trong những lần ra trận, ông đều lập công lớn và thể hiện năng lực chỉ huy quân sự đáng nể. Đặc biệt, vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, dù đã bước sang tuổi 80, ông vẫn dâng sớ xin được ra trận đánh giặc – một minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước và khí phách bất khuất của một bậc trí sĩ.
Không chỉ là một vị quan năng nổ trên chiến trường, Nguyễn Công Trứ còn có tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực kinh tế. Ông được biết đến là người tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, chiêu dân lập ấp. Nhờ những nỗ lực này, hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) đã ra đời, trở thành những vùng đất trù phú, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội thời bấy giờ. Ông cũng chú trọng nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa khi đề xuất thành lập nhà học, xã thương tại các địa phương.
Không thể không nhắc đến Nguyễn Công Trứ với tư cách là một nhà thơ lớn. Ông để lại hơn 150 tác phẩm, chủ yếu viết bằng chữ Nôm, với các thể loại phong phú như thơ Đường luật, phú, câu đối và đặc biệt là hát nói – thể thơ mà ông có công lớn trong việc định hình và phát triển. Thơ văn của ông thấm đẫm tinh thần tự do, cốt cách thanh cao, thể hiện chí làm trai, khát vọng lập công danh cũng như bản lĩnh sống ngạo nghễ trước cuộc đời. Những bài thơ như Bài ca ngất ngưởng, Chơi xuân kẻo hết xuân đi hay Hàn nho phong vị phú cho thấy rõ nhân cách lớn, cá tính mạnh mẽ, lòng yêu nước, yêu dân và sự thanh liêm của một bậc đại nho trong thời loạn.
Nguyễn Công Trứ là hiện thân tiêu biểu cho mẫu hình trí thức Nho giáo sống có lý tưởng, giàu trách nhiệm công dân, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ để lại nhiều thành quả cụ thể cho đất nước mà còn trở thành tấm gương về nhân cách, đạo đức và chí khí cho hậu thế noi theo. Ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng như một biểu tượng sống động của lòng dân và trí tuệ Việt.
Con người Nguyễn Công Trứ nổi bật ở đặc điểm nào sau đây?
Về tác giả Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất, toàn tài của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. Ông không chỉ được biết đến là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc dưới triều Nguyễn, mà còn là nhà thơ lớn, nhà tư tưởng giàu bản lĩnh, nhà cải cách kinh tế thực tiễn, để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông sinh ra tại Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trong một gia đình có truyền thống nho học, quê gốc tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, yêu thích thơ văn và có chí lập công danh. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông gặp không ít trắc trở. Mãi đến tuổi 42, ông mới đỗ Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An). Đây được xem là bước ngoặt đưa ông bước vào con đường làm quan và phụng sự triều đình.
Từng trải qua nhiều đời vua từ Gia Long đến Tự Đức, Nguyễn Công Trứ giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, Bố chánh sứ, Tổng đốc, Thượng thư và cuối cùng là Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên, con đường làm quan của ông không bằng phẳng. Có những thời điểm ông được thăng chức liên tục nhờ công lao hiển hách trong quân sự và kinh tế, nhưng cũng có lúc bị giáng chức, thậm chí bị cách chức, sung làm lính thú. Dù ở địa vị nào, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững khí chất cương trực, sống thanh liêm, trung nghĩa và luôn tận tụy vì lợi ích của đất nước.
Là một nhà nho nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ bút nghiên. Ông từng cầm quân trấn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833), giặc Khánh (1835), và góp phần trong cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1841 – 1845). Trong những lần ra trận, ông đều lập công lớn và thể hiện năng lực chỉ huy quân sự đáng nể. Đặc biệt, vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, dù đã bước sang tuổi 80, ông vẫn dâng sớ xin được ra trận đánh giặc – một minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước và khí phách bất khuất của một bậc trí sĩ.
Không chỉ là một vị quan năng nổ trên chiến trường, Nguyễn Công Trứ còn có tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực kinh tế. Ông được biết đến là người tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, chiêu dân lập ấp. Nhờ những nỗ lực này, hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) đã ra đời, trở thành những vùng đất trù phú, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội thời bấy giờ. Ông cũng chú trọng nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa khi đề xuất thành lập nhà học, xã thương tại các địa phương.
Không thể không nhắc đến Nguyễn Công Trứ với tư cách là một nhà thơ lớn. Ông để lại hơn 150 tác phẩm, chủ yếu viết bằng chữ Nôm, với các thể loại phong phú như thơ Đường luật, phú, câu đối và đặc biệt là hát nói – thể thơ mà ông có công lớn trong việc định hình và phát triển. Thơ văn của ông thấm đẫm tinh thần tự do, cốt cách thanh cao, thể hiện chí làm trai, khát vọng lập công danh cũng như bản lĩnh sống ngạo nghễ trước cuộc đời. Những bài thơ như Bài ca ngất ngưởng, Chơi xuân kẻo hết xuân đi hay Hàn nho phong vị phú cho thấy rõ nhân cách lớn, cá tính mạnh mẽ, lòng yêu nước, yêu dân và sự thanh liêm của một bậc đại nho trong thời loạn.
Nguyễn Công Trứ là hiện thân tiêu biểu cho mẫu hình trí thức Nho giáo sống có lý tưởng, giàu trách nhiệm công dân, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ để lại nhiều thành quả cụ thể cho đất nước mà còn trở thành tấm gương về nhân cách, đạo đức và chí khí cho hậu thế noi theo. Ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng như một biểu tượng sống động của lòng dân và trí tuệ Việt.
Nguyễn Công Trứ thường thể hiện tư tưởng gì trong thơ văn của mình?
Về tác giả Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất, toàn tài của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. Ông không chỉ được biết đến là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc dưới triều Nguyễn, mà còn là nhà thơ lớn, nhà tư tưởng giàu bản lĩnh, nhà cải cách kinh tế thực tiễn, để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông sinh ra tại Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trong một gia đình có truyền thống nho học, quê gốc tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, yêu thích thơ văn và có chí lập công danh. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông gặp không ít trắc trở. Mãi đến tuổi 42, ông mới đỗ Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An). Đây được xem là bước ngoặt đưa ông bước vào con đường làm quan và phụng sự triều đình.
Từng trải qua nhiều đời vua từ Gia Long đến Tự Đức, Nguyễn Công Trứ giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, Bố chánh sứ, Tổng đốc, Thượng thư và cuối cùng là Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên, con đường làm quan của ông không bằng phẳng. Có những thời điểm ông được thăng chức liên tục nhờ công lao hiển hách trong quân sự và kinh tế, nhưng cũng có lúc bị giáng chức, thậm chí bị cách chức, sung làm lính thú. Dù ở địa vị nào, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững khí chất cương trực, sống thanh liêm, trung nghĩa và luôn tận tụy vì lợi ích của đất nước.
Là một nhà nho nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ bút nghiên. Ông từng cầm quân trấn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833), giặc Khánh (1835), và góp phần trong cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1841 – 1845). Trong những lần ra trận, ông đều lập công lớn và thể hiện năng lực chỉ huy quân sự đáng nể. Đặc biệt, vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, dù đã bước sang tuổi 80, ông vẫn dâng sớ xin được ra trận đánh giặc – một minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước và khí phách bất khuất của một bậc trí sĩ.
Không chỉ là một vị quan năng nổ trên chiến trường, Nguyễn Công Trứ còn có tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực kinh tế. Ông được biết đến là người tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, chiêu dân lập ấp. Nhờ những nỗ lực này, hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) đã ra đời, trở thành những vùng đất trù phú, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội thời bấy giờ. Ông cũng chú trọng nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa khi đề xuất thành lập nhà học, xã thương tại các địa phương.
Không thể không nhắc đến Nguyễn Công Trứ với tư cách là một nhà thơ lớn. Ông để lại hơn 150 tác phẩm, chủ yếu viết bằng chữ Nôm, với các thể loại phong phú như thơ Đường luật, phú, câu đối và đặc biệt là hát nói – thể thơ mà ông có công lớn trong việc định hình và phát triển. Thơ văn của ông thấm đẫm tinh thần tự do, cốt cách thanh cao, thể hiện chí làm trai, khát vọng lập công danh cũng như bản lĩnh sống ngạo nghễ trước cuộc đời. Những bài thơ như Bài ca ngất ngưởng, Chơi xuân kẻo hết xuân đi hay Hàn nho phong vị phú cho thấy rõ nhân cách lớn, cá tính mạnh mẽ, lòng yêu nước, yêu dân và sự thanh liêm của một bậc đại nho trong thời loạn.
Nguyễn Công Trứ là hiện thân tiêu biểu cho mẫu hình trí thức Nho giáo sống có lý tưởng, giàu trách nhiệm công dân, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ để lại nhiều thành quả cụ thể cho đất nước mà còn trở thành tấm gương về nhân cách, đạo đức và chí khí cho hậu thế noi theo. Ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng như một biểu tượng sống động của lòng dân và trí tuệ Việt.
Nguyễn Công Trứ có đóng góp đặc biệt cho sự định hình và phát triển của thể thơ nào sau đây?
Về tác giả Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất, toàn tài của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. Ông không chỉ được biết đến là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc dưới triều Nguyễn, mà còn là nhà thơ lớn, nhà tư tưởng giàu bản lĩnh, nhà cải cách kinh tế thực tiễn, để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông sinh ra tại Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trong một gia đình có truyền thống nho học, quê gốc tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, yêu thích thơ văn và có chí lập công danh. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông gặp không ít trắc trở. Mãi đến tuổi 42, ông mới đỗ Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An). Đây được xem là bước ngoặt đưa ông bước vào con đường làm quan và phụng sự triều đình.
Từng trải qua nhiều đời vua từ Gia Long đến Tự Đức, Nguyễn Công Trứ giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, Bố chánh sứ, Tổng đốc, Thượng thư và cuối cùng là Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên, con đường làm quan của ông không bằng phẳng. Có những thời điểm ông được thăng chức liên tục nhờ công lao hiển hách trong quân sự và kinh tế, nhưng cũng có lúc bị giáng chức, thậm chí bị cách chức, sung làm lính thú. Dù ở địa vị nào, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững khí chất cương trực, sống thanh liêm, trung nghĩa và luôn tận tụy vì lợi ích của đất nước.
Là một nhà nho nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ bút nghiên. Ông từng cầm quân trấn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833), giặc Khánh (1835), và góp phần trong cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1841 – 1845). Trong những lần ra trận, ông đều lập công lớn và thể hiện năng lực chỉ huy quân sự đáng nể. Đặc biệt, vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, dù đã bước sang tuổi 80, ông vẫn dâng sớ xin được ra trận đánh giặc – một minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước và khí phách bất khuất của một bậc trí sĩ.
Không chỉ là một vị quan năng nổ trên chiến trường, Nguyễn Công Trứ còn có tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực kinh tế. Ông được biết đến là người tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, chiêu dân lập ấp. Nhờ những nỗ lực này, hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) đã ra đời, trở thành những vùng đất trù phú, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội thời bấy giờ. Ông cũng chú trọng nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa khi đề xuất thành lập nhà học, xã thương tại các địa phương.
Không thể không nhắc đến Nguyễn Công Trứ với tư cách là một nhà thơ lớn. Ông để lại hơn 150 tác phẩm, chủ yếu viết bằng chữ Nôm, với các thể loại phong phú như thơ Đường luật, phú, câu đối và đặc biệt là hát nói – thể thơ mà ông có công lớn trong việc định hình và phát triển. Thơ văn của ông thấm đẫm tinh thần tự do, cốt cách thanh cao, thể hiện chí làm trai, khát vọng lập công danh cũng như bản lĩnh sống ngạo nghễ trước cuộc đời. Những bài thơ như Bài ca ngất ngưởng, Chơi xuân kẻo hết xuân đi hay Hàn nho phong vị phú cho thấy rõ nhân cách lớn, cá tính mạnh mẽ, lòng yêu nước, yêu dân và sự thanh liêm của một bậc đại nho trong thời loạn.
Nguyễn Công Trứ là hiện thân tiêu biểu cho mẫu hình trí thức Nho giáo sống có lý tưởng, giàu trách nhiệm công dân, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ để lại nhiều thành quả cụ thể cho đất nước mà còn trở thành tấm gương về nhân cách, đạo đức và chí khí cho hậu thế noi theo. Ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng như một biểu tượng sống động của lòng dân và trí tuệ Việt.
Phần lớn tác phẩm của Nguyễn Công Trứ được viết bằng loại văn tự nào sau đây?
Về tác giả Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất, toàn tài của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. Ông không chỉ được biết đến là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc dưới triều Nguyễn, mà còn là nhà thơ lớn, nhà tư tưởng giàu bản lĩnh, nhà cải cách kinh tế thực tiễn, để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông sinh ra tại Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trong một gia đình có truyền thống nho học, quê gốc tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, yêu thích thơ văn và có chí lập công danh. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông gặp không ít trắc trở. Mãi đến tuổi 42, ông mới đỗ Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An). Đây được xem là bước ngoặt đưa ông bước vào con đường làm quan và phụng sự triều đình.
Từng trải qua nhiều đời vua từ Gia Long đến Tự Đức, Nguyễn Công Trứ giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, Bố chánh sứ, Tổng đốc, Thượng thư và cuối cùng là Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên, con đường làm quan của ông không bằng phẳng. Có những thời điểm ông được thăng chức liên tục nhờ công lao hiển hách trong quân sự và kinh tế, nhưng cũng có lúc bị giáng chức, thậm chí bị cách chức, sung làm lính thú. Dù ở địa vị nào, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững khí chất cương trực, sống thanh liêm, trung nghĩa và luôn tận tụy vì lợi ích của đất nước.
Là một nhà nho nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ bút nghiên. Ông từng cầm quân trấn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833), giặc Khánh (1835), và góp phần trong cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1841 – 1845). Trong những lần ra trận, ông đều lập công lớn và thể hiện năng lực chỉ huy quân sự đáng nể. Đặc biệt, vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, dù đã bước sang tuổi 80, ông vẫn dâng sớ xin được ra trận đánh giặc – một minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước và khí phách bất khuất của một bậc trí sĩ.
Không chỉ là một vị quan năng nổ trên chiến trường, Nguyễn Công Trứ còn có tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực kinh tế. Ông được biết đến là người tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, chiêu dân lập ấp. Nhờ những nỗ lực này, hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) đã ra đời, trở thành những vùng đất trù phú, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội thời bấy giờ. Ông cũng chú trọng nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa khi đề xuất thành lập nhà học, xã thương tại các địa phương.
Không thể không nhắc đến Nguyễn Công Trứ với tư cách là một nhà thơ lớn. Ông để lại hơn 150 tác phẩm, chủ yếu viết bằng chữ Nôm, với các thể loại phong phú như thơ Đường luật, phú, câu đối và đặc biệt là hát nói – thể thơ mà ông có công lớn trong việc định hình và phát triển. Thơ văn của ông thấm đẫm tinh thần tự do, cốt cách thanh cao, thể hiện chí làm trai, khát vọng lập công danh cũng như bản lĩnh sống ngạo nghễ trước cuộc đời. Những bài thơ như Bài ca ngất ngưởng, Chơi xuân kẻo hết xuân đi hay Hàn nho phong vị phú cho thấy rõ nhân cách lớn, cá tính mạnh mẽ, lòng yêu nước, yêu dân và sự thanh liêm của một bậc đại nho trong thời loạn.
Nguyễn Công Trứ là hiện thân tiêu biểu cho mẫu hình trí thức Nho giáo sống có lý tưởng, giàu trách nhiệm công dân, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ để lại nhiều thành quả cụ thể cho đất nước mà còn trở thành tấm gương về nhân cách, đạo đức và chí khí cho hậu thế noi theo. Ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng như một biểu tượng sống động của lòng dân và trí tuệ Việt.
Nguyễn Công Trứ được xem là "tài tử phong lưu mà khí khái" bởi lí do nào sau đây?
Bài đọc:
Về tác giả Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ là một trong những nhân vật kiệt xuất, toàn tài của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX. Ông không chỉ được biết đến là một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc dưới triều Nguyễn, mà còn là nhà thơ lớn, nhà tư tưởng giàu bản lĩnh, nhà cải cách kinh tế thực tiễn, để lại dấu ấn sâu đậm trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đương thời.
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn. Ông sinh ra tại Quỳnh Côi, phủ Thái Bình, trong một gia đình có truyền thống nho học, quê gốc tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, yêu thích thơ văn và có chí lập công danh. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông gặp không ít trắc trở. Mãi đến tuổi 42, ông mới đỗ Giải nguyên (thủ khoa kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An). Đây được xem là bước ngoặt đưa ông bước vào con đường làm quan và phụng sự triều đình.
Từng trải qua nhiều đời vua từ Gia Long đến Tự Đức, Nguyễn Công Trứ giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều như Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tham tri Bộ Hình, Bố chánh sứ, Tổng đốc, Thượng thư và cuối cùng là Phủ doãn phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên, con đường làm quan của ông không bằng phẳng. Có những thời điểm ông được thăng chức liên tục nhờ công lao hiển hách trong quân sự và kinh tế, nhưng cũng có lúc bị giáng chức, thậm chí bị cách chức, sung làm lính thú. Dù ở địa vị nào, Nguyễn Công Trứ vẫn giữ vững khí chất cương trực, sống thanh liêm, trung nghĩa và luôn tận tụy vì lợi ích của đất nước.
Là một nhà nho nhưng Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ bút nghiên. Ông từng cầm quân trấn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân như khởi nghĩa Phan Bá Vành (1827), Nông Văn Vân (1833), giặc Khánh (1835), và góp phần trong cuộc chiến tranh Việt – Xiêm (1841 – 1845). Trong những lần ra trận, ông đều lập công lớn và thể hiện năng lực chỉ huy quân sự đáng nể. Đặc biệt, vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, dù đã bước sang tuổi 80, ông vẫn dâng sớ xin được ra trận đánh giặc – một minh chứng hùng hồn cho lòng yêu nước và khí phách bất khuất của một bậc trí sĩ.
Không chỉ là một vị quan năng nổ trên chiến trường, Nguyễn Công Trứ còn có tầm nhìn vượt thời đại trong lĩnh vực kinh tế. Ông được biết đến là người tiên phong trong công cuộc khai khẩn đất hoang, quai đê lấn biển, chiêu dân lập ấp. Nhờ những nỗ lực này, hai huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình) đã ra đời, trở thành những vùng đất trù phú, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội thời bấy giờ. Ông cũng chú trọng nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa khi đề xuất thành lập nhà học, xã thương tại các địa phương.
Không thể không nhắc đến Nguyễn Công Trứ với tư cách là một nhà thơ lớn. Ông để lại hơn 150 tác phẩm, chủ yếu viết bằng chữ Nôm, với các thể loại phong phú như thơ Đường luật, phú, câu đối và đặc biệt là hát nói – thể thơ mà ông có công lớn trong việc định hình và phát triển. Thơ văn của ông thấm đẫm tinh thần tự do, cốt cách thanh cao, thể hiện chí làm trai, khát vọng lập công danh cũng như bản lĩnh sống ngạo nghễ trước cuộc đời. Những bài thơ như Bài ca ngất ngưởng, Chơi xuân kẻo hết xuân đi hay Hàn nho phong vị phú cho thấy rõ nhân cách lớn, cá tính mạnh mẽ, lòng yêu nước, yêu dân và sự thanh liêm của một bậc đại nho trong thời loạn.
Nguyễn Công Trứ là hiện thân tiêu biểu cho mẫu hình trí thức Nho giáo sống có lý tưởng, giàu trách nhiệm công dân, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trước lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của ông không chỉ để lại nhiều thành quả cụ thể cho đất nước mà còn trở thành tấm gương về nhân cách, đạo đức và chí khí cho hậu thế noi theo. Ông được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng như một biểu tượng sống động của lòng dân và trí tuệ Việt.
Nguyễn Công Trứ là tác giả của những tác phẩm nào dưới đây? (Chọn 2 đáp án)
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Tác phẩm Bài ca ngất ngưởng sử dụng phương thức biểu đạt chính nào dưới đây?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Sự kiện nào dưới đây đúng với hoàn cảnh ra đời của Bài ca ngất ngưởng?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Phong cách sống mà Nguyễn Công Trứ thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng là gì?
Bài đọc:
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Tác phẩm Bài ca ngất ngưởng được phiên âm ra chữ Quốc ngữ lần đầu bởi ai?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Bài thơ Bài ca ngất ngưởng ban đầu được Nguyễn Công Trứ viết bằng loại văn tự nào dưới đây?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Thể hát nói kết hợp các yếu tố của những thể thơ nào dưới đây?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Thơ hát nói thường gắn liền với loại hình nghệ thuật biểu diễn nào sau đây?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Thể hát nói phát triển mạnh mẽ nhất vào thời kỳ vào giai đoạn nào dưới đây?
Về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng và thể hát nói
Thể hát nói – một hình thức thơ độc đáo, kết hợp các thể thơ dân gian như song thất lục bát, lục bát với cách nói lối tự do, thường dùng trong lối hát ca trù. Thơ hát nói được các nghệ sĩ tài tử ưa chuộng bởi sự phóng khoáng, ít gò bó về hình thức (số câu, số chữ của các câu, gieo vần,…) rất phù hợp để biểu đạt cái tôi cá nhân, tâm hồn tự do, tài hoa. Thể thơ này phát triển từ thế kỉ XVIII và đạt đến đỉnh cao vào thế kỉ XIX.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm xuất sắc nhất, mẫu mực và đạt đến trình độ cổ điển của thể hát nói. Nguyên tác chữ Nôm của bài thơ được chép trong Gia phả tập biên, nhưng giữa bản này và các bản phiên âm sau có những khác biệt nhất định. Bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đầu tiên được học giả Lê Thước công bố trong sách Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1928), với tên gọi Bài ca ngất ngưởng. Từ đó, tác phẩm được truyền bá rộng rãi và xuất hiện với nhiều dị bản. Bài thơ được ông viết khi đã cáo quan, ở tuổi gần bảy mươi – giai đoạn ông có đủ trải nghiệm và chiêm nghiệm để tổng kết cuộc đời mình. Có thể xem đây là một bài thơ tự thuật, đồng thời cũng là một bản tuyên ngôn sống bằng thơ, thể hiện rõ tư tưởng, cá tính và nhân cách độc đáo của Nguyễn Công Trứ.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là ở tên gọi bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Không phải "bài ca" mà chính từ "ngất ngưởng" mới là yếu tố trung tâm, mang tính chất biểu tượng. Khác với các tên gọi kiểu "bài ca" thông thường như ở Cao Bá Quát (ví dụ: Sa hành đoản ca, Đằng tiên ca), từ "ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ sử dụng với nghĩa chuyển – không còn chỉ trạng thái chênh vênh, dễ rơi, mà trở thành hình ảnh biểu trưng cho phong cách sống ngang tàng, ngạo nghễ, vượt ngoài khuôn khổ lễ giáo đương thời. Đặc biệt, từ này xuất hiện tổng cộng năm lần trong toàn bài (kể cả tiêu đề), trong đó có hai lần được đặt ở cuối khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh và lặp đi lặp lại ấn tượng về cá tính "ngất ngưởng" ấy.
Điều làm nên giá trị đặc biệt của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ: đây là tác phẩm mà Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện rõ thái độ sống và cái tôi cá nhân. Điều này rất hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam – đặc biệt là với một nhà thơ từng sống trong chốn quan trường. Qua đó, ta thấy được một Nguyễn Công Trứ tự ý thức sâu sắc về giá trị bản thân, về xã hội và con người, báo hiệu sự chuyển mình mạnh mẽ trong đời sống tinh thần và văn học dân tộc: sự xuất hiện và khẳng định cái tôi cá nhân – một yếu tố nền tảng cho văn học hiện đại sau này.
Tựu trung, Bài ca ngất ngưởng là sự kết tinh giữa cá tính nghệ sĩ, bản lĩnh trí thức và phong cách tài tử của Nguyễn Công Trứ. Đây không chỉ là một tác phẩm tiêu biểu cho sáng tác của ông, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử thơ hát nói nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Đâu là nội dung thường được thể hiện bằng thể hát nói?
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Trong những nhận định dưới đây, nhận định nào là đúng, nhận định nào là sai khi nói về nội dung chính được thể hiện trong bài thơ Bài ca ngất ngưởng?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Phê phán lối sống khuôn mẫu. |
|
b) Bộc lộ tâm trạng u uất. |
|
c) Ca ngợi bản lĩnh sống khác đời. |
|
d) Khẳng định cái tôi cá nhân độc đáo. |
|
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Từ ngữ nào dưới thể hiện rõ nhất phong cách sống của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ?
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Hình tượng "ông ngất ngưởng" trong bài thơ thể hiện điều gì?
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Những hình ảnh đối lập nào dưới đây được thể hiện trong bài Bài ca ngất ngưởng? (Chọn 2 đáp án đúng).
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Cụm từ là cách Nguyễn Công Trứ tự xưng với phong thái tự tin, tự hào về bản thân và những thành tích, tài năng đã có. Đây là cách ông khẳng định cái tôi cá nhân, sự , khác biệt đặc trưng trong phong cách Nguyễn Công Trứ.
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Nhận xét nào dưới đây là đúng về cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Bài ca ngất ngưởng?
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Câu thơ "Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng" sử dụng biện pháp tu nào dưới đây?
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Câu thơ "Đời ai ngất ngưởng như ông!" sử dụng phép để nhấn mạnh sự khác biệt và cá tính độc đáo của Nguyễn Công Trứ. Qua đó, tác giả khẳng định không ai trong triều đình có thể sánh kịp với mình về thái độ sống và phóng khoáng. Từ "ngất ngưởng" được dùng như một hình ảnh biểu tượng cho phong cách sống , không chịu khuôn phép hay ràng buộc xã hội. Qua câu thơ, tác giả thể hiện rõ quan điểm sống kiêu hãnh và tinh thần vượt lên trên mọi giới hạn.
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Các dòng thơ như "Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông" và "Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng" trong bài thơ sử dụng biện pháp tu từ nào dưới đây?
Bài ca ngất ngưởng
Nguyễn Công Trứ
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cầm cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Đời ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Thơ văn Nguyễn Công Trứ, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1956, tr.156)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Cụm từ "ngất ngưởng" được lặp lại lần trong bài thơ. Đây là biện pháp tu từ , góp phần khắc họa sâu sắc phong cách sống ngạo nghễ, tự do và vượt lên khuôn phép của Nguyễn Công Trứ. "Ngất ngưởng" ở đây không đơn thuần là một , mà trở thành biểu tượng nghệ thuật cho cái tôi cá nhân bản lĩnh, dám giữa chốn quan trường lễ nghi. Qua đó, tác giả khẳng định một lối sống tự tin, kiêu hãnh, không hòa tan vào khuôn mẫu xã hội mà vẫn giữ trọn khí chất kẻ sĩ.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây