Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Luyện tập SVIP
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Văn bản "Quần thể di tích Cố đô Huế" thuộc kiểu văn bản nào dưới đây?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Quần thể di tích Cố đô Huế thuộc tỉnh nào?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Cố đô Huế không là thủ phủ, kinh đô của vương triều nào dưới đây?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
UNESCO đã công nhận Quần thể di tích Cố đô Huế là Di sản văn hóa thế giới vào năm nào?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Kinh thành Huế được xây dựng vào năm nào?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Điền thông tin vào chỗ trống.
Kinh thành Huế được hoàn thành vào năm , nằm bên bờ của sông , quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục , xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Lăng Minh Mệnh còn có tên gọi khác là
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về Điện Thái Hòa?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Là nơi lưu giữ đồ quý, chế tác đồ thủ công mĩ nghệ trong cung. |
|
b) Là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của triều Nguyễn. |
|
c) Được xây dựng vào năm 1805. |
|
d) Được hoàn thiện vào năm 1832. |
|
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Điền thông tin vào chỗ trống.
Đàn Nam Giao được xây dựng vào năm , bao gồm các hạng mục: Đàn Tế, , Thần Trù, Thần Khố,... Đây là nơi các vua Nguyễn tổ chức vào mùa xuân hàng năm.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Hổ Quyền là tên của một
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Ngọ Môn được xây dựng dưới triều vua nào?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Văn Miếu ở Huế được xây dựng để thờ
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Di tích nào dưới đây không thuộc Quần thể di tích Cố đô Huế?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Điện Phụng Tiên là nơi thờ cúng
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Những công trình nào dưới đây là nơi học tập, vui chơi của các hoàng tử khi chưa xuất phủ?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Khu vực phòng vệ của Đại Nội bao gồm
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Huế được xem là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam vì Huế
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Điền thông tin vào chỗ trống.
Kiến trúc Huế là sự kết hợp giữa kiến trúc truyền thống , tư tưởng triết lí phương cùng những đặc điểm của kiến trúc phương Tây và .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Ngọ Môn có vai trò gì trong quần thể di tích Cố đô Huế?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Theo lời nhận xét của A-ma-đu Ma-ta Em-bâu, Huế mang giá trị nào dưới đây?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Quần thể di tích Cố đô Huế được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt vào thời gian nào dưới đây?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Văn bản "Quần thể di tích Cố đô Huế" được đăng trên trang
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Mục đích của văn bản "Quần thể di tích Cố đô Huế" là
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Văn bản "Quần thể di tích Cố đô Huế" sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ nào dưới đây?
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Giới thiệu
Trong gần 400 năm (1558 - 1945), Huế đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của vương triều Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt mấy thế kỉ qua, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây, hun đúc cho một nền văn hoá đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời với sông núi hữu tình, thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích do thiên nhiên khéo tạo.
Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỉ XIV, các chúa Nguyễn (thế kỉ XVI - XVIII), triều đại Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII) và các vua Nguyễn (1802 - 1945) đã tiếp tục phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hoá vô giá. Tiêu biểu nhất là Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới (1993). [...]
(Ảnh: Bảo Minh, Thanh Toàn)
Nét đặc trưng
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, phân bố ở thành phố Huế và các thị xã Hương Trà, Hương Thuỷ, huyện Phú Vang, Phú Lộc, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lí phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hoà với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Dã Viên, cồn Hến,...
Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mĩ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hoá vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế,...
Kiến trúc
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai Cung, bến thuyền cung đình, Trấn Bình Đài, Trấn Hải Thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn Miếu, Võ Miếu, Hải Vân Quan,...
Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ bắc của sông Hương, quay mặt về hướng nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt nam ra mặt bắc, xung quanh có mười cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước,...
Đại Nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:
- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim Thuỷ (hào), tường bao bọc và mười cây cầu.
- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ Môn đến điện Thái Hoà, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần đại khánh tiết của các vua nhà Nguyễn.
- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu Miếu, Thái Miếu, Hưng Miếu, Thế Miếu, điện Phụng Tiên.
- Khu vực ăn ở của hoàng thái hậu và thái hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).
- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.
- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: nơi học tập và chơi đùa của các hoàng tử khi chưa xuất phủ.
- Khu vực Tử Cấm thành: chốn cung cấm, dành riêng cho vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
- Ngọ Môn: cổng chính phía nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.
- Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn,...
Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:
- Lăng Minh Mệnh (Hiếu Lăng): trên núi Cẩm Kê, xã Hương Thọ, được xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: Tẩm Điện, Tam Tài Sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt,...
- Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng): ở phường Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La Thành và các cổng, Chí Khiêm Đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm,...
Đàn Nam Giao: ở phía nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1806. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390 mét, chiều rộng 265 mét, gồm các hạng mục: Đàn Tế, Trai Cung, Thần Trù, Thần Khố,...
Văn Miếu: ở bờ bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500 mét về phía tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng nam, bao gồm các hạng mục: Văn Miếu, Đông Vu, Tây Vu và dãy nhà bia.
Hổ Quyền: ở địa phận phường Thủy Biều, được xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.
Giá trị
Gần một thế kỉ rưỡi là kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu, u tịch. Ông A-ma-đu Ma-ta Em-bâu (Amadou Mahtar M'bow) - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - đã thật tinh tế khi đưa ra một nhận xét trong lời kêu gọi cho cuộc vận động bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hoá Huế: “Huế không phải chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hoá sôi động - ở đó, đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hoà nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lí hết sức độc đáo.”.
Với một khối lượng di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 12-8-2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1272/QĐ-TTg về việc xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là Di tích quốc gia đặc biệt.
(Theo khamphahue.com.vn)
Điền vào chỗ trống.
Việc kết hợp giữa kênh chữ và kênh trong văn bản "Quần thể di tích Cố đô Huế" giúp người đọc thuận lợi hình dung, về đặc điểm và của khu Cố đô Huế.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây