Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Luyện tập Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngữ văn 11, KNTT SVIP
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trong số những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một vị trí đặc biệt, không chỉ trong sự nghiệp của ông mà còn trong lịch sử văn học dân tộc. Bài văn được viết sau sự kiện bi tráng: đêm 16 tháng 12 năm 1861, những người nông dân chân đất ở Cần Giuộc đã dùng vũ khí thô sơ tổ chức tập kích đồn giặc Pháp. Trận đánh giành được thắng lợi bước đầu nhưng cũng khiến gần 20 nghĩa sĩ phải hi sinh. Xúc động trước tinh thần quả cảm ấy, Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã mời Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để đọc tại lễ truy điệu. Sau đó, bài văn được vua Tự Đức cho truyền bá rộng rãi và được rất nhiều văn nhân thi sĩ các đời sau ngợi ca.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm tập trung khắc họa và ca ngợi hình tượng người nông dân yêu nước. Họ vốn là những người "chân lấm tay bùn", quanh năm quen việc ruộng đồng, nhưng khi giặc đến, họ đã dũng cảm đứng lên cầm vũ khí bảo vệ quê hương. Bài văn tế được tác giả viết bằng thể phú Đường luật và sử dụng lối văn biền ngẫu, phối hợp linh hoạt các yếu tố nghị luận, tự sự, trữ tình và biểu cảm. Về kết cấu, bài văn tế thường gồm 4 phần: Đoạn mở đầu (lung khởi) thường bàn luận chung về lẽ sống − chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất (thường mở đầu bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!); đoạn thứ hai (thích thực) kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã mất (thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa); đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm tiếc thương đối với người đã chết. Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế (thường kết thúc bằng các từ Ô hô!, Ai tai!, Hỡi ôi!, Thương thay!). Với bút lực xuất sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã nâng bài văn tế lên thành một tác phẩm nghệ thuật giàu cảm xúc, làm rung động bao thế hệ bạn đọc.
Từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta không chỉ nhận ra vẻ đẹp của một thể loại văn học cổ truyền, mà còn thấy được sự kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, và lòng biết ơn sâu sắc đối với những con người đã ngã xuống vì đất nước. Đó cũng chính là những giá trị bền vững và bất tử của áng văn bi tráng này trong kho tàng lịch sử văn học Việt Nam.
Nối các phần tương đương với nội dung của nó trong một bài văn tế.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trong số những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một vị trí đặc biệt, không chỉ trong sự nghiệp của ông mà còn trong lịch sử văn học dân tộc. Bài văn được viết sau sự kiện bi tráng: đêm 16 tháng 12 năm 1861, những người nông dân chân đất ở Cần Giuộc đã dùng vũ khí thô sơ tổ chức tập kích đồn giặc Pháp. Trận đánh giành được thắng lợi bước đầu nhưng cũng khiến gần 20 nghĩa sĩ phải hi sinh. Xúc động trước tinh thần quả cảm ấy, Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã mời Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để đọc tại lễ truy điệu. Sau đó, bài văn được vua Tự Đức cho truyền bá rộng rãi và được rất nhiều văn nhân thi sĩ các đời sau ngợi ca.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm tập trung khắc họa và ca ngợi hình tượng người nông dân yêu nước. Họ vốn là những người "chân lấm tay bùn", quanh năm quen việc ruộng đồng, nhưng khi giặc đến, họ đã dũng cảm đứng lên cầm vũ khí bảo vệ quê hương. Bài văn tế được tác giả viết bằng thể phú Đường luật và sử dụng lối văn biền ngẫu, phối hợp linh hoạt các yếu tố nghị luận, tự sự, trữ tình và biểu cảm. Về kết cấu, bài văn tế thường gồm 4 phần: Đoạn mở đầu (lung khởi) thường bàn luận chung về lẽ sống − chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất (thường mở đầu bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!); đoạn thứ hai (thích thực) kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã mất (thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa); đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm tiếc thương đối với người đã chết. Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế (thường kết thúc bằng các từ Ô hô!, Ai tai!, Hỡi ôi!, Thương thay!). Với bút lực xuất sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã nâng bài văn tế lên thành một tác phẩm nghệ thuật giàu cảm xúc, làm rung động bao thế hệ bạn đọc.
Từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta không chỉ nhận ra vẻ đẹp của một thể loại văn học cổ truyền, mà còn thấy được sự kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, và lòng biết ơn sâu sắc đối với những con người đã ngã xuống vì đất nước. Đó cũng chính là những giá trị bền vững và bất tử của áng văn bi tráng này trong kho tàng lịch sử văn học Việt Nam.
Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời sau sự kiện nào dưới đây?
Về tác giả Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc trong thế kỷ XIX. Mặc dù quê gốc Nguyễn Đình Chiểu ở Thừa Thiên Huế nhưng ông lại sinh ra và lớn lên tại phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định − nay là Thành phố Hồ Chí Minh.
Di sản thơ văn mà Nguyễn Đình Chiểu để lại rất đồ sộ. Những tác phẩm của ông chủ yếu sáng tác bằng chữ Nôm – loại chữ gần gũi với quần chúng – và thường lựa chọn những đề tài gắn liền với đời sống xã hội, truyền thống đạo lý và tinh thần yêu nước của dân tộc. Các thể loại nổi bật trong sáng tác của ông là truyện thơ, thơ Đường luật và văn tế. Nhiều tác phẩm như Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu hay Ngư tiểu y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh,… đã trở nên quen thuộc, với nhiều thế hệ người Việt, bởi trong đó kết tinh không chỉ về tài năng nghệ thuật mà còn cả tâm hồn và nhân cách đáng ngưỡng mộ của nhà thơ mù giàu lòng yêu nước. Năm 2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Đình Chiểu được vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới vào năm nào?
Về tác giả Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc trong thế kỷ XIX. Mặc dù quê gốc Nguyễn Đình Chiểu ở Thừa Thiên Huế nhưng ông lại sinh ra và lớn lên tại phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định − nay là Thành phố Hồ Chí Minh.
Di sản thơ văn mà Nguyễn Đình Chiểu để lại rất đồ sộ. Những tác phẩm của ông chủ yếu sáng tác bằng chữ Nôm – loại chữ gần gũi với quần chúng – và thường lựa chọn những đề tài gắn liền với đời sống xã hội, truyền thống đạo lý và tinh thần yêu nước của dân tộc. Các thể loại nổi bật trong sáng tác của ông là truyện thơ, thơ Đường luật và văn tế. Nhiều tác phẩm như Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu hay Ngư tiểu y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh,… đã trở nên quen thuộc, với nhiều thế hệ người Việt, bởi trong đó kết tinh không chỉ về tài năng nghệ thuật mà còn cả tâm hồn và nhân cách đáng ngưỡng mộ của nhà thơ mù giàu lòng yêu nước. Năm 2021, ông được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.
Chọn những tác phẩm được sáng tác bởi Nguyễn Đình Chiểu. (Chọn 3 đáp án)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trong số những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một vị trí đặc biệt, không chỉ trong sự nghiệp của ông mà còn trong lịch sử văn học dân tộc. Bài văn được viết sau sự kiện bi tráng: đêm 16 tháng 12 năm 1861, những người nông dân chân đất ở Cần Giuộc đã dùng vũ khí thô sơ tổ chức tập kích đồn giặc Pháp. Trận đánh giành được thắng lợi bước đầu nhưng cũng khiến gần 20 nghĩa sĩ phải hi sinh. Xúc động trước tinh thần quả cảm ấy, Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã mời Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để đọc tại lễ truy điệu. Sau đó, bài văn được vua Tự Đức cho truyền bá rộng rãi và được rất nhiều văn nhân thi sĩ các đời sau ngợi ca.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm tập trung khắc họa và ca ngợi hình tượng người nông dân yêu nước. Họ vốn là những người "chân lấm tay bùn", quanh năm quen việc ruộng đồng, nhưng khi giặc đến, họ đã dũng cảm đứng lên cầm vũ khí bảo vệ quê hương. Bài văn tế được tác giả viết bằng thể phú Đường luật và sử dụng lối văn biền ngẫu, phối hợp linh hoạt các yếu tố nghị luận, tự sự, trữ tình và biểu cảm. Về kết cấu, bài văn tế thường gồm 4 phần: Đoạn mở đầu (lung khởi) thường bàn luận chung về lẽ sống − chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất (thường mở đầu bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!); đoạn thứ hai (thích thực) kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã mất (thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa); đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm tiếc thương đối với người đã chết. Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế (thường kết thúc bằng các từ Ô hô!, Ai tai!, Hỡi ôi!, Thương thay!). Với bút lực xuất sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã nâng bài văn tế lên thành một tác phẩm nghệ thuật giàu cảm xúc, làm rung động bao thế hệ bạn đọc.
Từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta không chỉ nhận ra vẻ đẹp của một thể loại văn học cổ truyền, mà còn thấy được sự kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, và lòng biết ơn sâu sắc đối với những con người đã ngã xuống vì đất nước. Đó cũng chính là những giá trị bền vững và bất tử của áng văn bi tráng này trong kho tàng lịch sử văn học Việt Nam.
Điền thông tin thích hợp vào chỗ trống dưới đây:
Bài văn tế được tác giả viết bằng thể phú Đường luật và sử dụng lối văn , phối hợp linh hoạt các yếu tố nghị luận, tự sự, trữ tình và .
Về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Năm 1861, sau khi chiếm được Gia Định và đánh hạ được đại đồn Kỳ Hoà, Pháp tiến đánh Mỹ Tho, hạ được thành và chiếm được thị xã Gò Công cùng hai xứ Tân An và Cần Giuộc. Căm phẫn vì hành động của Pháp, các cụ Trương Công Định, Phan Văn Đạt, Hồ Huấn Hiệp, Cai tổng Bùi Quang Là,... tổ chức nghĩa quân chống Pháp ở Tân An, Chợ Lớn và Gò Công. Trận thắng lớn đầu tiên là trận đánh úp chợ Trường Bình ở Cần Giuộc (tức quận Cần Giuộc, nay thuộc tỉnh Long An) đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (tức 16-12-1861), dưới sự chỉ huy của Cai tổng Là, chỉ dùng khí giới bằng tầm vông, giáo mác mà giết được một trung uý Pháp trưởng đồn, đốt một dãy nhà Việt gian, giết và làm bị thương trên 50 tên địch, nhưng có 15 người (có tài liệu nói 27 người) hy sinh. Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang ra lệnh cho Bùi Quang Là tổ chức lễ tế truy điệu những người tử trận. Bùi Quang Là nhờ Nguyễn Đình Chiểu lúc ấy đang ở quê vợ là làng Thanh Ba (nay thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc) viết bài văn tế này. Sau đó Đỗ Quang cho sao bài văn tế gửi kèm báo cáo về Huế, tương truyền Tự Đức cho sao ra gởi tới các tỉnh vùng Trung Bắc sai phổ biến rộng rãi để khích lệ quân đội và nhân dân.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tố quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghê thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.
(Nguồn: Thi viện)
Ai là người nhờ Nguyễn Đình Chiểu viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc?
Về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Năm 1861, sau khi chiếm được Gia Định và đánh hạ được đại đồn Kỳ Hoà, Pháp tiến đánh Mỹ Tho, hạ được thành và chiếm được thị xã Gò Công cùng hai xứ Tân An và Cần Giuộc. Căm phẫn vì hành động của Pháp, các cụ Trương Công Định, Phan Văn Đạt, Hồ Huấn Hiệp, Cai tổng Bùi Quang Là,... tổ chức nghĩa quân chống Pháp ở Tân An, Chợ Lớn và Gò Công. Trận thắng lớn đầu tiên là trận đánh úp chợ Trường Bình ở Cần Giuộc (tức quận Cần Giuộc, nay thuộc tỉnh Long An) đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (tức 16-12-1861), dưới sự chỉ huy của Cai tổng Là, chỉ dùng khí giới bằng tầm vông, giáo mác mà giết được một trung uý Pháp trưởng đồn, đốt một dãy nhà Việt gian, giết và làm bị thương trên 50 tên địch, nhưng có 15 người (có tài liệu nói 27 người) hy sinh. Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang ra lệnh cho Bùi Quang Là tổ chức lễ tế truy điệu những người tử trận. Bùi Quang Là nhờ Nguyễn Đình Chiểu lúc ấy đang ở quê vợ là làng Thanh Ba (nay thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc) viết bài văn tế này. Sau đó Đỗ Quang cho sao bài văn tế gửi kèm báo cáo về Huế, tương truyền Tự Đức cho sao ra gửi tới các tỉnh vùng Trung Bắc sai phổ biến rộng rãi để khích lệ quân đội và nhân dân.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tố quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghê thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.
(Nguồn: Thi viện)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được vua Tự Đức cho sao chép và phổ biến rộng rãi là vì bài văn tế này
Về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Năm 1861, sau khi chiếm được Gia Định và đánh hạ được đại đồn Kỳ Hoà, Pháp tiến đánh Mỹ Tho, hạ được thành và chiếm được thị xã Gò Công cùng hai xứ Tân An và Cần Giuộc. Căm phẫn vì hành động của Pháp, các cụ Trương Công Định, Phan Văn Đạt, Hồ Huấn Hiệp, Cai tổng Bùi Quang Là,... tổ chức nghĩa quân chống Pháp ở Tân An, Chợ Lớn và Gò Công. Trận thắng lớn đầu tiên là trận đánh úp chợ Trường Bình ở Cần Giuộc (tức quận Cần Giuộc, nay thuộc tỉnh Long An) đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (tức 16-12-1861), dưới sự chỉ huy của Cai tổng Là, chỉ dùng khí giới bằng tầm vông, giáo mác mà giết được một trung uý Pháp trưởng đồn, đốt một dãy nhà Việt gian, giết và làm bị thương trên 50 tên địch, nhưng có 15 người (có tài liệu nói 27 người) hy sinh. Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang ra lệnh cho Bùi Quang Là tổ chức lễ tế truy điệu những người tử trận. Bùi Quang Là nhờ Nguyễn Đình Chiểu lúc ấy đang ở quê vợ là làng Thanh Ba (nay thuộc xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc) viết bài văn tế này. Sau đó Đỗ Quang cho sao bài văn tế gửi kèm báo cáo về Huế, tương truyền Tự Đức cho sao ra gửi tới các tỉnh vùng Trung Bắc sai phổ biến rộng rãi để khích lệ quân đội và nhân dân.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tố quốc. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghê thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, sinh động.
(Nguồn: Thi viện)
Trong trận Cần Giuộc, nghĩa quân sử dụng vũ khí nào dưới đây để đánh giặc?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Đâu là điểm nổi bật trong tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua đoạn trích?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trong số những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một vị trí đặc biệt, không chỉ trong sự nghiệp của ông mà còn trong lịch sử văn học dân tộc. Bài văn được viết sau sự kiện bi tráng: đêm 16 tháng 12 năm 1861, những người nông dân chân đất ở Cần Giuộc đã dùng vũ khí thô sơ tổ chức tập kích đồn giặc Pháp. Trận đánh giành được thắng lợi bước đầu nhưng cũng khiến gần 20 nghĩa sĩ phải hi sinh. Xúc động trước tinh thần quả cảm ấy, Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã mời Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để đọc tại lễ truy điệu. Sau đó, bài văn được vua Tự Đức cho truyền bá rộng rãi và được rất nhiều văn nhân thi sĩ các đời sau ngợi ca.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm tập trung khắc họa và ca ngợi hình tượng người nông dân yêu nước. Họ vốn là những người "chân lấm tay bùn", quanh năm quen việc ruộng đồng, nhưng khi giặc đến, họ đã dũng cảm đứng lên cầm vũ khí bảo vệ quê hương. Bài văn tế được tác giả viết bằng thể phú Đường luật và sử dụng lối văn biền ngẫu, phối hợp linh hoạt các yếu tố nghị luận, tự sự, trữ tình và biểu cảm. Về kết cấu, bài văn tế thường gồm 4 phần: Đoạn mở đầu (lung khởi) thường bàn luận chung về lẽ sống − chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất (thường mở đầu bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!); đoạn thứ hai (thích thực) kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã mất (thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa); đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm tiếc thương đối với người đã chết. Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế (thường kết thúc bằng các từ Ô hô!, Ai tai!, Hỡi ôi!, Thương thay!). Với bút lực xuất sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã nâng bài văn tế lên thành một tác phẩm nghệ thuật giàu cảm xúc, làm rung động bao thế hệ bạn đọc.
Từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta không chỉ nhận ra vẻ đẹp của một thể loại văn học cổ truyền, mà còn thấy được sự kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, và lòng biết ơn sâu sắc đối với những con người đã ngã xuống vì đất nước. Đó cũng chính là những giá trị bền vững và bất tử của áng văn bi tráng này trong kho tàng lịch sử văn học Việt Nam.
Từ tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, người đọc (đặc biệt là giới trẻ ngày nay) có thể rút ra được bài học tư tưởng gì quan trọng nhất?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Trong số những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một vị trí đặc biệt, không chỉ trong sự nghiệp của ông mà còn trong lịch sử văn học dân tộc. Bài văn được viết sau sự kiện bi tráng: đêm 16 tháng 12 năm 1861, những người nông dân chân đất ở Cần Giuộc đã dùng vũ khí thô sơ tổ chức tập kích đồn giặc Pháp. Trận đánh giành được thắng lợi bước đầu nhưng cũng khiến gần 20 nghĩa sĩ phải hi sinh. Xúc động trước tinh thần quả cảm ấy, Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang đã mời Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để đọc tại lễ truy điệu. Sau đó, bài văn được vua Tự Đức cho truyền bá rộng rãi và được rất nhiều văn nhân thi sĩ các đời sau ngợi ca.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm tập trung khắc họa và ca ngợi hình tượng người nông dân yêu nước. Họ vốn là những người "chân lấm tay bùn", quanh năm quen việc ruộng đồng, nhưng khi giặc đến, họ đã dũng cảm đứng lên cầm vũ khí bảo vệ quê hương. Bài văn tế được tác giả viết bằng thể phú Đường luật và sử dụng lối văn biền ngẫu, phối hợp linh hoạt các yếu tố nghị luận, tự sự, trữ tình và biểu cảm. Về kết cấu, bài văn tế thường gồm 4 phần: Đoạn mở đầu (lung khởi) thường bàn luận chung về lẽ sống − chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất (thường mở đầu bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!); đoạn thứ hai (thích thực) kể về cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã mất (thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa); đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm tiếc thương đối với người đã chết. Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế (thường kết thúc bằng các từ Ô hô!, Ai tai!, Hỡi ôi!, Thương thay!). Với bút lực xuất sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã nâng bài văn tế lên thành một tác phẩm nghệ thuật giàu cảm xúc, làm rung động bao thế hệ bạn đọc.
Từ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta không chỉ nhận ra vẻ đẹp của một thể loại văn học cổ truyền, mà còn thấy được sự kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc và lòng biết ơn sâu sắc đối với những con người đã ngã xuống vì đất nước. Đó cũng chính là những giá trị bền vững và bất tử của áng văn bi tráng này trong kho tàng lịch sử văn học Việt Nam.
Điền nội dung thích hợp cho phần còn trống dưới đây.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm tiêu biểu, có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Qua tác phẩm, hình ảnh người chân chất nhưng giàu lòng yêu nước hiện lên đầy xúc động và hào hùng. Không chỉ tôn vinh một thể loại văn học, bài văn còn thể hiện tinh thần , ý chí dân tộc và lòng đối với những con người đã hi sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Từ “Hỡi ơi!” mở đầu tác phẩm có tác dụng gì?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Câu thơ nào sau đây thể hiện lý tưởng sống cao đẹp của người nghĩa sĩ Cần Giuộc?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Nêu tác dụng của biện pháp liệt kê trong hai câu sau:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Điền thông tin thích hợp vào đoạn trích dưới đây:
Câu văn “Súng giặc đất rền/Lòng dân trời tỏ” là ví dụ tiêu biểu cho câu văn có kết cấu biền ngẫu: Hai vế cả về hình thức và nội dung (súng giặc ↔ lòng dân; đất rền ↔ trời tỏ). Câu này mở đầu bài văn, gợi khí thế và rõ rệt giữa giặc – dân, đồng thời thể hiện nghệ thuật câu đối cổ điển trong văn tế.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Ghép các hình ảnh sao cho tương ứng với ý nghĩa của nó.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Nhận định nào sau đây KHÔNG đúng với tác phẩm trên?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc hiện lên với những đặc điểm nào dưới đây? (Chọn 2 đáp án).
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Nêu nội dung chính được thể hiện qua hai câu sau:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Hỡi ơi!
1. Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
2. Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
3. Cui cút làm ăn;
Riêng lo nghèo khó.
4. Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
5. Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
6. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
7. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
8. Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
9. Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
10. Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
11. Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
12. Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
13. Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
14. Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
15. Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Ôi!
16. Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
17. Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
18. Đoái sông Cầm Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
19. Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
20. Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
21. Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió?
22. Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
23. Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
24. Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
25. Đau đớn bấy! mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
26. Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
27. Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
28. Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
29. Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
30. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải Phóng, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976, in trong Ngữ văn 11 Nâng cao, tập một, Sđd, tr.30 − 34.)
Điều gì làm nên giá trị nghệ thuật đặc sắc nhất của đoạn trích?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây