Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đọc: Tràng giang SVIP
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Nhà thơ nào dưới đây là tác giả của bài thơ Tràng giang?
Tiểu sử nhà thơ Huy Cận
Nhà thơ Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận. Ông sinh ngày 31 − 5 − 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (tú tài, cao đẳng Nông lâm...) và hoạt động văn học. Từ đầu năm 1942, ông vừa học Nông lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7 − 1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Ông là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời. Từ 5 − 11 − 1946, ông là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Từ 1949 − 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. 1955 − 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Từ 9 − 1984: Bộ trưởng Đặc trách công tác văn hóa − thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, sau đó làm Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa 1, 2 và 7.
Những tác phẩm chính của Huy Cận: Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài thơ cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách văn hóa ở CHXHCN Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Paris, 1985); Tuyển tập (thơ, 1986); Nước thủy triều Đông (thơ, song ngữ, xuất bản ở Paris, 1994); Hồi ký song đôi (1997).
Nhà thơ Huy Cận đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học − Nghệ thuật (đợt 1 − 1996).
Điền thông tin thích hợp vào chỗ trống.
− Huy Cận sinh năm tại tỉnh .
− là tập thơ đầu tay của Huy Cận.
− Ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về − Nghệ thuật (đợt 1 năm 1996).
Tiểu sử nhà thơ Huy Cận
Nhà thơ Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận. Ông sinh ngày 31 − 5 − 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (tú tài, cao đẳng Nông lâm...) và hoạt động văn học. Từ đầu năm 1942, ông vừa học Nông lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7 − 1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Ông là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời. Từ 5 − 11 − 1946, ông là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Từ 1949 − 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. 1955 − 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Từ 9 − 1984: Bộ trưởng Đặc trách công tác văn hóa − thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, sau đó làm Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa 1, 2 và 7.
Những tác phẩm chính của Huy Cận: Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài thơ cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách văn hóa ở CHXHCN Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Paris, 1985); Tuyển tập (thơ, 1986); Nước thủy triều Đông (thơ, song ngữ, xuất bản ở Paris, 1994); Hồi ký song đôi (1997).
Nhà thơ Huy Cận đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học − Nghệ thuật (đợt 1 − 1996).
Nhà thơ Huy Cận từng đảm nhận những chức vụ nào dưới đây? (Chọn 3 đáp án)
Tiểu sử nhà thơ Huy Cận
Nhà thơ Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận. Ông sinh ngày 31 − 5 − 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (tú tài, cao đẳng Nông lâm...) và hoạt động văn học. Từ đầu năm 1942, ông vừa học Nông lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7 − 1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Ông là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời. Từ 5 − 11 − 1946, ông là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Từ 1949 − 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. 1955 − 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Từ 9 − 1984: Bộ trưởng Đặc trách công tác văn hóa − thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, sau đó làm Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa 1, 2 và 7.
Những tác phẩm chính của Huy Cận: Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài thơ cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách văn hóa ở CHXHCN Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Paris, 1985); Tuyển tập (thơ, 1986); Nước thủy triều Đông (thơ, song ngữ, xuất bản ở Paris, 1994); Hồi ký song đôi (1997).
Nhà thơ Huy Cận đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học − Nghệ thuật (đợt 1 − 1996).
Khi công tác tại Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, nhà thơ Huy Cận đã đảm nhiệm chức vụ gì?
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Tràng giang (Huy Cận) là bài thơ thuộc tập
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TẬP LỬA THIÊNG
Nhà thơ Huy Cận được đánh giá là một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới. Sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận được chia làm hai giai đoạn khá rõ nét. Giai đoạn trước tháng 8/1945, sau khi xuất bản tập thơ đầu tay Lửa thiêng năm 1940, Huy Cận trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới (1932 − 1941) lúc bấy giờ.
Theo nhà nghiên cứu, lý luận văn học Tôn Phương Lan, giới nghiên cứu và phê bình nhìn chung đều thống nhất trong việc đánh giá cao tập Lửa thiêng của nhà thơ Huy Cận, không chỉ trước cách mạng mà cả sau cách mạng. Đặc trưng của thơ Huy Cận thời kỳ này là nỗi sầu: mênh mang, tràn đầy. Nhà lý luận phê bình Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam gọi đó là "ảo não".
Nỗi buồn trong Lửa thiêng của Huy Cận được nhiều nhà nghiên cứu phân tích và cho rằng đó là một biểu hiện của tình yêu cuộc sống. "Sầu" nhưng là nỗi sầu đẹp, nếu nhìn từ góc độ thẩm mỹ, nó làm nên một đặc trưng của Lửa thiêng và góp phần làm đa dạng gương mặt Thơ Mới.
Điền thông tin phù hợp vào chỗ trống.
Tập Lửa thiêng được xuất bản vào năm , là tập thơ của nhà thơ Huy Cận. trong Lửa thiêng là một trong những yếu tố làm nên đặc trưng độc đáo của tập thơ, góp phần làm đa dạng gương mặt Thơ Mới.
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Tác phẩm Tràng giang được viết theo thể thơ
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Trong bài thơ Tràng giang, lời đề từ có tác dụng gì?
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để hoàn thiện nội dung bao quát của bài thơ "Tràng giang".
Qua cảnh "sông dài, trời rộng, bến cô liêu" , chủ thể trữ tình bộc lộ trước cảnh sắc thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời và lòng thầm kín mà thiết tha.
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Nhan đề Tràng giang gợi lên điều gì? (Chọn 2 đáp án)
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Bài thơ Tràng giang không chỉ đơn thuần miêu tả mà còn là sự biểu hiện nỗi cô đơn của kiếp người. Ấn tượng chung khi đọc Tràng giang là nỗi buồn của con người trước vũ trụ , trước mênh mông hiu quạnh. Mỗi khổ thơ là sự triển khai, cụ thể hoá nỗi buồn đó.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Trong bài thơ Tràng giang, khổ thơ thể hiện rõ nhất tâm trạng cô đơn và nỗi nhớ nhà của tác giả là khổ thơ thứ
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Yếu tố nào dưới đây cho thấy bài thơ Tràng giang thuộc phong cách lãng mạn? (Chọn 2 đáp án)
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Nối các phần dưới đây với nội dung tương ứng.
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Dòng thơ "Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;" gợi liên tưởng đến điều gì?
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Hai câu thơ sau thể hiện điều gì?
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Không gian sông nước trong bài thơ Tràng giang hiện lên như thế nào?
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Trong những cặp hình ảnh dưới đây, đâu là cặp hình ảnh đối lập?
Tràng giang
Huy Cận
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
H.C.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mấy cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Huy Cận, Lửa thiêng, NXB Đời nay, Hà Nội, 1940, tr. 52 − 53)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang được xây dựng bằng nhiều thủ pháp . Đó là một bức tranh có đường nét , mở ra không gian vô tận về chiều cao, xa, rộng, dài. Đó là cảnh mênh mông, bao la, bát ngát với một không gian trải dài từ mặt sông lên cao chót vót tận .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Tiểu sử nhà thơ Huy Cận
Nhà thơ Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận. Ông sinh ngày 31 − 5 − 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh.
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận đi học (tú tài, cao đẳng Nông lâm...) và hoạt động văn học. Từ đầu năm 1942, ông vừa học Nông lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7 − 1945, tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Ông là Bộ trưởng Canh nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời. Từ 5 − 11 − 1946, ông là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là Thứ trưởng Bộ Canh nông rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Từ 1949 − 1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ. 1955 − 1984: Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Từ 9 − 1984: Bộ trưởng Đặc trách công tác văn hóa − thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, sau đó làm Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, đại biểu Quốc hội khóa 1, 2 và 7.
Những tác phẩm chính của Huy Cận: Lửa thiêng (thơ, 1940); Vũ trụ ca (thơ, 1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Tính chất dân tộc trong văn nghệ (nghiên cứu, 1958); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (thơ, 1960); Bài thơ cuộc đời (thơ, 1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ, 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thủy Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo (thơ, 1984); Văn hóa và chính sách văn hóa ở CHXHCN Việt Nam (viết bằng tiếng Pháp, xuất bản ở Paris, 1985); Tuyển tập (thơ, 1986); Nước thủy triều Đông (thơ, song ngữ, xuất bản ở Paris, 1994); Hồi ký song đôi (1997).
Nhà thơ Huy Cận đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học − Nghệ thuật (đợt 1 − 1996).
Trong những tác phẩm dưới đây, đâu không phải là sáng tác của Huy Cận? (Chọn 2 đáp án)
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây