Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đọc: Tác gia Nguyễn Du SVIP
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Quê gốc của Nguyễn Du ở
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Nhận định nào sau đây là sai khi nói về tiểu sử của Nguyễn Du?
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Điền vào chỗ trống.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và ; có truyền thống . ông gắn liền với đầy biến động dữ dội nên trải nhiều .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Nối các mốc thời gian dưới đây với sự kiện tương ứng trong cuộc đời của Nguyễn Du.
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Điền vào chỗ trống.
Khi triều Tây Sơn bị diệt vọng và Nguyễn Ánh lập ra triều đạt mới, lấy niên hiệu là Gia Long (1802), Nguyễn Du ra làm quan cho . Ông được tân triều trọng dụng. Năm 1813, ông đảm nhận sứ mệnh sứ bộ đi Trung Quốc. Năm 1820, Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, lại cử Nguyễn Du làm nhưng chưa kịp thì ông lâm bệnh nặng và qua đời.
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Những nhận định về Nguyễn Du dưới đây là đúng hay sai?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Không có điều kiện chứng kiến tận mắt cuộc sống xa hoa của giới quý tộc. |
|
b) Từng trải qua 18 năm "gió bụi" để trải nghiệm, suy ngẫm về con người, xã hội. |
|
c) Có điều kiện tiếp nhận tinh hoa truyền thống của nhiều vùng văn hoá khác nhau. |
|
d) Có tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc và luôn mang nặng nỗi thương đời, thương người. |
|
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Đâu không phải là sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du?
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Điền vào chỗ trống.
− Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài thơ, được sáng tác trong những năm tháng của cuộc đời Nguyễn Du nên chất chứa những .
− Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài thơ, chủ yếu được sáng tác trong thời kì Nguyễn Du cho triều Nguyễn. Nhà thơ luôn bày tỏ nỗi chán nản, về và niềm khao khát được , về sống ẩn dật nơi quê nhà.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Điền vào chỗ trống.
− Bắc hành tạp lục gồm 132 , được Nguyễn Du sáng tác trong thời gian . có vị trí nổi bật trong dòng thơ nói riêng và trong kho tàng thơ ca trung đại Việt Nam nói chung.
− Xuyên suốt Bắc hành tạp lục là nỗi cảm thương sâu sắc, nỗi day dứt khôn nguôi về số phận con người, đặc biệt là những cuộc đời tài hoa nhưng .
− Từ "những điều trông thấy" trên hành trình đi sứ, Nguyễn Du đã để lại những câu thơ như những lời chất vấn day dứt, những tiếng khóc xót xa và cả sự dồn nén bấy lâu. Với tầm nhìn sâu rộng và trái tim đồng cảm, ông đã gửi gắm qua tập thơ những thông điệp giàu tính .
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về thơ chữ Hán của Nguyễn Du? (Chọn 3 đáp án)
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm những tác phẩm nào dưới đây? (Chọn 2 đáp án)
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Điền vào chỗ trống.
− Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu được sáng tác theo thể , Thác lời trai phường nón được sáng tác theo thể thơ . Cả hai tác phẩm đều bộc lộ những xúc cảm lãng mạn, đậm chất trữ tình; giọng điệu tươi sáng, dí dỏm; đặc biệt, tác giả Nguyễn Du đã vận dụng nhuần nhuyễn ca dao, tục ngữ giúp ngôn ngữ mang màu sắc .
− Văn tế thập loại chúng sinh được Nguyễn Du sáng tác theo thể song thất lục bát, là bản bi ca cho kiếp người , mong manh; đồng thời phản ánh sâu sắc hiện thực đương thời và khơi mở nhiều vấn đề có ý nghĩa lâu dài.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới
Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du nguyên có tên là Đoạn trường tân thanh. Đây là tác phẩm truyện thơ Nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh nhưng Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại lúc nhà thơ đang sống. Tác phẩm gồm 3.254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thuý Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh "Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần", bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.
Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thuỷ trong xã hội mà quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim − Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Truyện Kiều còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài, sắc, tình, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thuỷ chung, chí khí anh hùng... Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả xã hội bạo tàn, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng.
Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với Truyện Kiều, tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca. Vì thế, Truyện Kiều là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.
Nghệ thuật tự sự trong Truyện Kiều cũng đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc hoạ tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của văn học Việt Nam. Với những giá trị to lớn ấy, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc hoạ sau này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hoá nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hoà bình thế giới vinh danh ông là Danh nhân văn hoá thế giới. Hiện nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 10 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản...
(Trích Cổng thông tin điện tử Tỉnh Cao Bằng, Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới, 2015)
Nhận định nào sau đây là sai khi nói về Truyện Kiều của Nguyễn Du? (Chọn 2 đáp án)
Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới
Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du nguyên có tên là Đoạn trường tân thanh. Đây là tác phẩm truyện thơ Nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh nhưng Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại lúc nhà thơ đang sống. Tác phẩm gồm 3.254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thuý Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh "Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần", bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.
Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thuỷ trong xã hội mà quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim − Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Truyện Kiều còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài, sắc, tình, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thuỷ chung, chí khí anh hùng... Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả xã hội bạo tàn, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng.
Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với Truyện Kiều, tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca. Vì thế, Truyện Kiều là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.
Nghệ thuật tự sự trong Truyện Kiều cũng đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc hoạ tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của văn học Việt Nam. Với những giá trị to lớn ấy, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc hoạ sau này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hoá nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hoà bình thế giới vinh danh ông là Danh nhân văn hoá thế giới. Hiện nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 10 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản...
(Trích Cổng thông tin điện tử Tỉnh Cao Bằng, Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới, 2015)
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về giá trị tư tưởng của Truyện Kiều (Nguyễn Du)? (Chọn 3 đáp án)
Điền vào chỗ trống.
Đọc Truyện Kiều, người đời sau còn "trông thấy" bức tranh hiện thực của xã hội, thời đại Nguyễn Du − một thời kì đang bước vào giai đoạn suy tàn. Trong xã hội ấy, có "quyền lực" chi phối mọi thứ; được dung túng hoành hành. Những kẻ đại diện cho giai cấp hiện lên với bản chất tham lam, tàn độc; lương thiện phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và oan khuất. Lời xót thương, bi phẫn cho thân phận bạc mệnh của đã trở thành tiếng nói chung, mang ý nghĩa tố cáo, lên án một xã hội đầy rẫy bất công.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Điền vào chỗ trống.
Truyện Kiều của Nguyễn Du kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện : cách tổ chức , xây dựng , nghệ thuật tự sự và trữ tình, và thể thơ,...
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều (Nguyễn Du)? (Chọn 3 đáp án).
Điền vào chỗ trống.
Khi sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du gần như hệ thống nhân vật từ Kim Vân Kiều truyện. Tuy nhiên, tính cách của phần lớn nhân vật đã được ông khắc hoạ lại theo hướng khác, phù hợp hơn với mới, bản sắc văn hoá và tâm hồn dân tộc. Trải qua nhiều sự kiện, biến cố như bán mình, , báo ân báo oán, đoàn viên,... Thuý Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du luôn có cách nghĩ, cách ứng xử so với Thuý Kiều trong tác phẩm gốc của Thanh Tâm Tài Nhân.
Nhận định nào dưới đây là đúng khi nói về các nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)? (Chọn 3 đáp án)
Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới
Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du nguyên có tên là Đoạn trường tân thanh. Đây là tác phẩm truyện thơ Nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh nhưng Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại lúc nhà thơ đang sống. Tác phẩm gồm 3.254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thuý Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh "Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần", bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.
Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thuỷ trong xã hội mà quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim − Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Truyện Kiều còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài, sắc, tình, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thuỷ chung, chí khí anh hùng... Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả xã hội bạo tàn, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng.
Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với Truyện Kiều, tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca. Vì thế, Truyện Kiều là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.
Nghệ thuật tự sự trong Truyện Kiều cũng đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc hoạ tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của văn học Việt Nam. Với những giá trị to lớn ấy, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc hoạ sau này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hoá nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hoà bình thế giới vinh danh ông là Danh nhân văn hoá thế giới. Hiện nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 10 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản...
(Trích Cổng thông tin điện tử Tỉnh Cao Bằng, Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới, 2015)
Đâu không phải là đặc trưng nghệ thuật của Truyện Kiều (Nguyễn Du)?
Điền vào chỗ trống.
Với sâu sắc và những ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là của nhân loại.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Nhận định về Truyện Kiều, nhà thơ Xuân Diệu cho rằng: "Truyện Kiều là một tiếng khóc vĩ đại... Nguyễn Du đã nhìn thấy, đã cảm xúc, đã tổng kết hàng vạn vạn đau khổ của người đời dưới chế độ phong kiến suy đồi".
Nhận định trên đã thể hiện rõ điều gì về chiều sâu tư tưởng của tác phẩm?
Câu thơ "Bách niên đa thiểu thương tâm sự" (Cuộc đời trăm năm biết bao nhiêu chuyên thương tâm) trong bài Giang đình hữu cảm của Nguyễn Du thể hiện rõ nhất đặc điểm nào trong cách nhìn đời của ông?
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây