Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây) SVIP
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Tác giả của văn bản "Dương phụ hành" là
VỀ TÁC GIẢ CAO BÁ QUÁT
* Tiểu sử:
− Sinh năm 1808, mất năm 1855; tự là Chu Thần, hiệu là Mẫn Hiên, Cúc Đường; quê quán ở phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội.
− Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn nhưng nổi tiếng thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Ông đỗ cử nhân từ rất sớm (1831) nhưng con đường làm quan lại lận đận, gặp nhiều gian truân.
− Năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Ông và Phan Nhạ đã chữa 9 chữ trong một số bài thi hay những có chỗ phạm trường quy. Việc bị phát giác, ông bị khép tội chết, sau được giảm án xuống tội "dương trình hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội).
− Năm 1844, Cao Bá Quát trở về và được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về sống với vợ con ở Thăng Long. Năm 1847, ông nhận được lệnh triệu vào Huế làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Năm 1852, do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đày đi làm Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây.
− Năm 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mất sạch mùa màng, đời sống người dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát vận động một số sĩ phu yêu nước dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương (Sơn Tây) chống lại triều đình đương thời. Tuy giành được một số thắng lợi nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại. Năm 1855, Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa, triều đình ra lệnh "tru di tam tộc" với dòng họ Cao.
* Sự nghiệp văn chương:
− Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát. Thơ văn của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
− Sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương thất bại, các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành nên đã bị thất lạc không ít.
− Sau quá trình biên soạn lại, số tác phẩm còn sót lại của Cao Bá Quát cũng được trên ngàn bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo theo thể truyền kỳ.
− Một số tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát: Bài ca ngắn đi trên cát, Vịnh Tản Viên sơn, Vịnh Đổng Thiên Vương, Chiêm bao thấy con gái đã mất, Sắp đến quê nhà,...
Tác giả Cao Bá Quát có tên tự là
VỀ TÁC GIẢ CAO BÁ QUÁT
* Tiểu sử:
− Sinh năm 1808, mất năm 1855; tự là Chu Thần, hiệu là Mẫn Hiên, Cúc Đường; quê quán ở phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội.
− Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn nhưng nổi tiếng thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Ông đỗ cử nhân từ rất sớm (1831) nhưng con đường làm quan lại lận đận, gặp nhiều gian truân.
− Năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Ông và Phan Nhạ đã chữa 9 chữ trong một số bài thi hay những có chỗ phạm trường quy. Việc bị phát giác, ông bị khép tội chết, sau được giảm án xuống tội "dương trình hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội).
− Năm 1844, Cao Bá Quát trở về và được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về sống với vợ con ở Thăng Long. Năm 1847, ông nhận được lệnh triệu vào Huế làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Năm 1852, do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đày đi làm Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây.
− Năm 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mất sạch mùa màng, đời sống người dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát vận động một số sĩ phu yêu nước dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương (Sơn Tây) chống lại triều đình đương thời. Tuy giành được một số thắng lợi nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại. Năm 1855, Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa, triều đình ra lệnh "tru di tam tộc" với dòng họ Cao.
* Sự nghiệp văn chương:
− Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát. Thơ văn của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
− Sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương thất bại, các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành nên đã bị thất lạc không ít.
− Sau quá trình biên soạn lại, số tác phẩm còn sót lại của Cao Bá Quát cũng được trên ngàn bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo theo thể truyền kỳ.
− Một số tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát: Bài ca ngắn đi trên cát, Vịnh Tản Viên sơn, Vịnh Đổng Thiên Vương, Chiêm bao thấy con gái đã mất, Sắp đến quê nhà,...
Nối các mốc thời gian với sự kiện tương ứng về cuộc đời của tác giả Cao Bá Quát.
VỀ TÁC GIẢ CAO BÁ QUÁT
* Tiểu sử:
− Sinh năm 1808, mất năm 1855; tự là Chu Thần, hiệu là Mẫn Hiên, Cúc Đường; quê quán ở phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội.
− Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn nhưng nổi tiếng thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Ông đỗ cử nhân từ rất sớm (1831) nhưng con đường làm quan lại lận đận, gặp nhiều gian truân.
− Năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Ông và Phan Nhạ đã chữa 9 chữ trong một số bài thi hay những có chỗ phạm trường quy. Việc bị phát giác, ông bị khép tội chết, sau được giảm án xuống tội "dương trình hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội).
− Năm 1844, Cao Bá Quát trở về và được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về sống với vợ con ở Thăng Long. Năm 1847, ông nhận được lệnh triệu vào Huế làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Năm 1852, do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đày đi làm Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây.
− Năm 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mất sạch mùa màng, đời sống người dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát vận động một số sĩ phu yêu nước dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương (Sơn Tây) chống lại triều đình đương thời. Tuy giành được một số thắng lợi nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại. Năm 1855, Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa, triều đình ra lệnh "tru di tam tộc" với dòng họ Cao.
* Sự nghiệp văn chương:
− Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát. Thơ văn của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
− Sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương thất bại, các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành nên đã bị thất lạc không ít.
− Sau quá trình biên soạn lại, số tác phẩm còn sót lại của Cao Bá Quát cũng được trên ngàn bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo theo thể truyền kỳ.
− Một số tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát: Bài ca ngắn đi trên cát, Vịnh Tản Viên sơn, Vịnh Đổng Thiên Vương, Chiêm bao thấy con gái đã mất, Sắp đến quê nhà,...
Nhận xét nào dưới đây là không đúng về đặc điểm thơ văn của tác giả Cao Bá Quát?
VỀ TÁC GIẢ CAO BÁ QUÁT
* Tiểu sử:
− Sinh năm 1808, mất năm 1855; tự là Chu Thần, hiệu là Mẫn Hiên, Cúc Đường; quê quán ở phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội.
− Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn nhưng nổi tiếng thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Ông đỗ cử nhân từ rất sớm (1831) nhưng con đường làm quan lại lận đận, gặp nhiều gian truân.
− Năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Ông và Phan Nhạ đã chữa 9 chữ trong một số bài thi hay những có chỗ phạm trường quy. Việc bị phát giác, ông bị khép tội chết, sau được giảm án xuống tội "dương trình hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội).
− Năm 1844, Cao Bá Quát trở về và được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về sống với vợ con ở Thăng Long. Năm 1847, ông nhận được lệnh triệu vào Huế làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Năm 1852, do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đày đi làm Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây.
− Năm 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mất sạch mùa màng, đời sống người dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát vận động một số sĩ phu yêu nước dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương (Sơn Tây) chống lại triều đình đương thời. Tuy giành được một số thắng lợi nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại. Năm 1855, Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa, triều đình ra lệnh "tru di tam tộc" với dòng họ Cao.
* Sự nghiệp văn chương:
− Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát. Thơ văn của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
− Sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương thất bại, các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành nên đã bị thất lạc không ít.
− Sau quá trình biên soạn lại, số tác phẩm còn sót lại của Cao Bá Quát cũng được trên ngàn bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo theo thể truyền kỳ.
− Một số tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát: Bài ca ngắn đi trên cát, Vịnh Tản Viên sơn, Vịnh Đổng Thiên Vương, Chiêm bao thấy con gái đã mất, Sắp đến quê nhà,...
Trong những tác phẩm dưới đây, đâu không phải sáng tác của tác giả Cao Bá Quát?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Bài thơ "Dương phụ hành" được viết theo thể , một hình thức thông dụng của thơ cổ thể. Đây là thể thơ có tính tự sự, thường kể lại một , sự kiện hay tình huống nào đó mới lạ và bất ngờ. Qua đó, chủ thể trữ tình bày tỏ , thái độ và chính kiến của bản thân. Thể hành thường cho phép tác giả tự do trong cách biểu đạt, không bị , ràng buộc.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Văn bản "Dương phụ hành" sử dụng những phương thức biểu đạt nào dưới đây? (Chọn 2 phương án)
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Xác định nội dung chính của từng phần trong văn bản "Dương phụ hành".
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Nhân vật trữ tình trong bài thơ "Dương phụ hành" là người
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Câu chuyện trong bài thơ Dương phụ hành diễn ra trên biển vào ban , dưới ánh . Không gian ấy có gió biển, đèn thuyền le lói tạo nên khung cảnh vừa vừa lạnh lẽo.
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Hình ảnh người thiếu phụ phương Tây được miêu tả thông qua những chi tiết nào dưới đây? (Chọn 2 phương án)
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Hình ảnh người thiếu phụ phương Tây y trắng như tuyết (áo trắng như tuyết) gợi lên điều gì?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Người thiếu phụ phương Tây với cử chỉ Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì (Một cốc sữa hững hờ trên tay) thể hiện điều gì?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Những dòng thơ nào dưới đây thể hiện tình yêu, sự hạnh phúc của vợ chồng người thiếu phụ phương Tây? (Chọn 2 phương án)
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Nỗi "biệt li" được nhắc đến trong câu thơ cuối là nỗi chia li giữa người khách phương Nam với
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Nhận xét nào dưới đây là đúng về ý nghĩa của câu thơ Khởi thức Nam nhân hữu biệt li (Há biết người Nam có cảnh biệt li)?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Ý kiến nào dưới đây là đúng về sự đối lập giữa người thiếu phụ phương Tây và người khách phương Nam?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Nhận xét nào dưới đây là đúng về tác dụng của việc xây dựng sự đối lập giữa người thiếu phụ phương Tây và người khách phương Nam?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Nhận xét nào dưới đây là phù hợp về hình ảnh người chồng được gợi lên trong bài thơ?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Nhận xét nào dưới đây là đúng về thái độ, cảm nhận của tác giả Cao Bá Quát trước hình tượng người thiếu phụ phương Tây?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Cách miêu tả hình tượng người thiếu phụ phương Tây thể hiện điều gì về con người của tác giả Cao Bá Quát?
DƯƠNG PHỤ HÀNH
(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)
CAO BÁ QUÁT
Phiên âm
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li.
Dịch nghĩa
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,
Kéo áo nói rì rầm với chồng.
Một cốc sữa hững hờ trên tay,
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.
Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,
Há biết người Nam có cảnh biệt li.
Dịch thơ
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo, rì rầm nói với nhau.
Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,
Biết đâu nỗi khách biệt li này.
(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII − nửa đầu thế kỉ XIX,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.748 − 749)
Ý nào dưới đây là đúng về nghệ thuật miêu tả của tác giả Cao Bá Quát trong bài thơ "Dương phụ hành"?
VỀ TÁC GIẢ CAO BÁ QUÁT
* Tiểu sử:
− Sinh năm 1808, mất năm 1855; tự là Chu Thần, hiệu là Mẫn Hiên, Cúc Đường; quê quán ở phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc, huyện Gia Lâm, nay thuộc thành phố Hà Nội.
− Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn nhưng nổi tiếng thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Ông đỗ cử nhân từ rất sớm (1831) nhưng con đường làm quan lại lận đận, gặp nhiều gian truân.
− Năm 1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Ông và Phan Nhạ đã chữa 9 chữ trong một số bài thi hay những có chỗ phạm trường quy. Việc bị phát giác, ông bị khép tội chết, sau được giảm án xuống tội "dương trình hiệu lực" (tức đi phục dịch để lấy công chuộc tội).
− Năm 1844, Cao Bá Quát trở về và được phục chức ở bộ Lễ, nhưng chẳng bao lâu thì bị thải về sống với vợ con ở Thăng Long. Năm 1847, ông nhận được lệnh triệu vào Huế làm ở Viện Hàn lâm, lo việc sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Năm 1852, do không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát đã bị đày đi làm Giáo thụ phủ Quốc Oai, Sơn Tây.
− Năm 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mất sạch mùa màng, đời sống người dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát vận động một số sĩ phu yêu nước dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương (Sơn Tây) chống lại triều đình đương thời. Tuy giành được một số thắng lợi nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại. Năm 1855, Cao Bá Quát bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa, triều đình ra lệnh "tru di tam tộc" với dòng họ Cao.
* Sự nghiệp văn chương:
− Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát. Thơ văn của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
− Sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương thất bại, các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành nên đã bị thất lạc không ít.
− Sau quá trình biên soạn lại, số tác phẩm còn sót lại của Cao Bá Quát cũng được trên ngàn bài viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo theo thể truyền kỳ.
− Một số tác phẩm tiêu biểu của Cao Bá Quát: Bài ca ngắn đi trên cát, Vịnh Tản Viên sơn, Vịnh Đổng Thiên Vương, Chiêm bao thấy con gái đã mất, Sắp đến quê nhà,...
Sắp xếp các mốc thời gian dưới đây với sự kiện tương ứng trong cuộc đời của Cao Bá Quát.
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây