Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đọc: Độc Tiểu Thanh kí SVIP
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Tên hiệu của Nguyễn Du là gì?
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ như thế nào? (Chọn 3 đáp án)
Nối cột A − thời gian với cột B − sự kiện tương ứng trong cuộc đời của tác gia Nguyễn Du.
Đại thi hào Nguyễn Du có bao nhiêu tập thơ chữ Hán?
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để hoàn thiện nhận xét về thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát rất cao và mang giá trị sâu sắc. Đặc biệt, các sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của chính tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, đến thấu hiểu con người và .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: (Chọn 2 đáp án)
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Nhận định nào dưới đây là sai khi nói về tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Phương thức biểu đạt của tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) là gì?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Nối các phần trong bố cục của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí với nội dung tương ứng.
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Hai câu đầu (hai câu đề) của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí gợi lên mối liên hệ giữa hiện tại và quá khứ như thế nào?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Trong hai câu đề của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí có sự đối lập giữa
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Hai câu thực của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí thể hiện mối quan hệ đối lập giữa hai hình tượng nào và nhằm truyền tải thông điệp gì?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Cái tài của nàng Tiểu Thanh được thể hiện qua dòng thơ nào của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Hai câu thực trong bài Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) chủ yếu nhằm thể hiện điều gì dưới đây?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Nối các cụm từ Hán − Việt ở cột A với nội dung, ý nghĩa tương ứng ở cột B.
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Hai câu luận trong bài Độc Tiểu Thanh kí thể hiện sự phẫn uất của Nguyễn Du trước thực tế của xã hội : những con người thường .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Hai câu kết của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) bộc lộ điều gì?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Giá trị tư tưởng nổi bật nhất của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí là
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Hai câu kết của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí thể hiện nỗi của nghệ sĩ lớn "Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya" (Xuân Diệu). Nguyễn Du thấy mình lạc lõng ở và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong .
Nhận định nào dưới đây khái quát đúng nhất về bi kịch của người tài hoa dưới góc nhìn của Nguyễn Du?
Điền từ còn thiếu vào chỗ trống để hoàn thành nội dung thể hiện tư tưởng xuyên suốt bài thơ:
"Chữ tài chữ mệnh khéo là ... nhau."
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Nối các chi tiết ở cột A với ý nghĩa tương ứng ở cột B.
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Đâu là giá trị hiện thực được thể hiện trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du)?
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Đặc sắc nghệ thuật của Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) là: âm điệu , từ ngữ , giàu sức .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Độc Tiểu Thanh kí
(Đọc truyện về nàng Tiểu Thanh)
Nguyễn Du
Phiên âm
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch nghĩa
Cảnh đẹp Tây Hồ nay đã thành bãi hoang cả rồi,
Riêng ta viếng nàng qua một tờ giấy trước cửa sổ.
Son phấn vì có thần nên vẫn phải xót xa về những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh, phải chịu luỵ bị đốt dở.
Nỗi oán hận xưa nay khó mà hỏi trời cho rõ được,
Nỗi oan khiên lạ lùng của kẻ phong nhã, ta tự cũng đặt mình vào.
Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?
Dịch thơ
Bản dịch 1
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
(Vũ Tam Tập dịch, theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 174)
Bản dịch 2
Tây Hồ hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thơ chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết luỵ văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỉ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?
(Quách Tấn dịch, tạp chí Văn, số đặc biệt Tưởng niệm Nguyễn Du, Sài Gòn, 1967, dẫn theo Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018, tr. 133)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Giá trị nhân đạo của bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du):
− Niềm tiếc thương dành cho Tiểu Thanh, một người tài hoa . Tiểu Thanh là kết tinh của nhan sắc, trí tuệ, tâm hồn. Sắc tài là vậy nhưng làm sao tránh khỏi tài mệnh tương đố, tạo hoá trêu ngươi, thậm chí chính lại là nguyên nhân của , khiến cho con người bị vùi dập, chà đạp tàn nhẫn.
− Niềm cảm thương dành cho số phận con người. Chuyển cảm hứng nhân đạo từ sang , từ nỗi xót thương một cá nhân sang xót thương một thế hệ, những kiếp người.
− Bằng chính sự trải nghiệm của bản thân, Nguyễn Du thấu hiểu của để rồi tự thương cho chính bản thân mình. Khóc cho nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du lại quay về khóc cho chính bản thân mình.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây