Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đọc: Cà Mau quê xứ SVIP
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Văn bản "Cà Mau quê xứ" được trích từ tác phẩm nào dưới đây?
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Ai là tác giả của văn bản "Cà Mau quê xứ"?
Một thế giới biệt lập của Trần Tuấn
Phải nói rằng Trần Tuấn có lối viết rất "ngang tàng". Điều đó làm cho những con chữ của anh đanh như búa gõ, mà cũng đằm như phù sa lắng dưới lòng sông dù dòng nước xoáy.
Trần Tuấn tên thật là Trần Ngọc Tuấn, sinh năm 1967 tại Hà Nội, quê gốc Quảng Ngãi. Anh được nhiều người biết đến với tư cách một nhà báo, hiện là Trưởng ban đại diện Báo Tiền Phong tại miền Trung. Thế nhưng Trần Tuấn còn viết rất nhiều thể loại, và rất thành công ở mảng ký và thơ. Cho đến nay, anh đã xuất bản ký sự nhân vật "Đừng gọi tôi là Lại Phiền Hà", "Vượt qua tiểu thuyết", bút ký "Uống cà phê trên đường của Vũ", ba tập thơ "Ma Thuật ngón", "Chậm hơn sự dừng lại" và mới đây nhất là "Sống là gì lâu quá đã quên".
Tập thơ "Sống là gì lâu quá đã quên" do NXB Đà Nẵng ấn hành vào quý I (2025) gồm hai phần "Thở" và "Kệ" với khoảng 40 thi phẩm đưa bạn đọc đến với thế giới biệt lập của Trần Tuấn. Một thế giới có thể đã bắt gặp ở các tập thơ trước: Cô đơn, lạnh lùng và những con chữ ân tình.
Phải nói rằng Trần Tuấn có lối viết rất "ngang tàng". Điều đó làm cho những con chữ của anh đanh như búa gõ, mà cũng đằm như phù sa lắng dưới lòng sông dù dòng nước xoáy. Cái "ngang tàng" ấy đi từ văn xuôi vào đến tận trong thơ - một thể loại vốn rất tình. Hãy xem sự "bất cần" của anh: "tôi không thể tha thứ cho đời/ đời không thể tha thứ cho tôi/ đời không cần tha thứ cho đời/ tôi không cần tha thứ cho tôi" ("Tôi và đời chẳng tha thứ cho nhau") hay "kệ/ buông/ kệ/ đợi/ kệ/ không/ kệ/ đang/ kệ/ mất/ kệ/ trông/ kệ/ rời" ("Kệ").
Phải chăng bởi vì quen ngụ cư trong chốn cô đơn nên anh mới có những nghĩ suy như thế? Anh cô đơn, hay đã lên đến đỉnh của cái tôi để rồi tạo nên sự "bất cần" cùng với những câu thơ với cái tôi độc tôn: "chẳng viết gì chỉ viết rằng tôi/ chẳng đọc gì chỉ đọc rằng tôi". Cái điệp khúc ấy cứ hát đi hát lại trong thi phẩm "Chẳng muốn gì chỉ muốn rằng" như sự khẳng định về sự tồn tại độc lập của cái tôi Trần Tuấn vậy.
Ý thức về cái tôi, ý thức về cuộc đời như vậy, nhưng có lúc anh tự hỏi: "sống là gì lâu quá đã quên/ người mệt xuống một buổi chiều thèm ngủ" ("Sống là gì lâu quá đã quên"). Tôi nhớ Trần Tuấn từng nói: "Chúng ta sống không thể thiếu cái chết được. Tôi chọn đối diện với cái chết". Đanh sắc và lạnh lùng, trầm tĩnh, tưởng như đã quen đối mặt với đối thủ đáng gờm nhất cuộc đời ấy, nhận diện cái chết đang tồn tại ngay trong cơ thể sống mà anh quên cả việc "sống là gì"? Trong phần "Thở" − một hoạt động sống nhưng nhắc nhiều tới cái chết, hầu như ở đâu đó cái chết cũng bảng lảng như sương: "đừng ai gọi cho tôi nữa", "nhớ chết như nhớ nhà"...
Thơ Trần Tuấn tựa như tính cách của một người đàn ông trầm tính, bắt người đọc phải tìm hiểu để thấy được tâm tư, tình cảm ẩn sâu bên trong. Giọng thơ dù đanh cứng, lạnh lùng nhưng vẫn "mênh mông bát ngát tình". Những dòng thơ "một mai chết/ hãy trồng tôi như cái cây/ để tôi mọc sâu xuống một cái bóng/ che cọng cỏ buồn ở phía bên kia" ("Đừng ai gọi cho tôi nữa") là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó. Vẫn còn có ý nghĩ như sẻ chia, như đồng cảm từ một hồn thơ tưởng chừng như vô tình, vô cảm. Để từ đây ta mới thấy anh nói "kệ" nhưng lại không bỏ qua điều gì, chẳng hề quên sống và khái niệm về nó. Và như thế thơ anh dường như là một sự nhắc nhở, hãy sống chậm rãi và cảm nhận sự sống vì "nhiều khi thở mặc nhiên là sống" ("Nghìn cánh hạc").
"Sống là gì lâu quá đã quên" còn gây ấn tượng bởi thủ pháp nghệ thuật, tạo nên một hiệu ứng đặc biệt làm cho việc làm thơ trở thành một trò chơi thú vị. Đơn cử như bài thơ "Có được không" như là sự hoán vị giữa ba từ: "Có được không/ được có không/ không được có/ không có được". Nhiều "ma thuật" như vậy được sử dụng trong 12 thi phẩm như "Kệ", "Chẳng muốn gì chỉ muốn rằng", "Đang", "Đâu",... cho thấy sự táo bạo và sáng tạo rất Trần Tuấn.
Mỗi bài thơ của Trần Tuấn như từng câu chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Có những bài thơ ngắn như kẻ kiệm lời, có những bài thơ dài nhưng như kẻ lười bày tỏ cảm xúc, nhưng dù dung lượng thế nào thì cũng là những gợi ý để ta đi giải mã thơ anh.
(Nguồn: Báo Hà Nội mới)
Trong những nhận định sau, nhận định nào đúng, nhận định nào sai khi nói về tác giả Trần Tuấn?
(Nhấp vào ô màu vàng để chọn đúng / sai)a) Nhà báo thường viết về chính trị, hạn chế viết về cuộc sống. |
|
b) Ông viết rất nhiều thể loại, đặc biệt thành công ở ký và thơ. |
|
c) Ông gây ấn tượng với người đọc bởi lối viết rất "ngang tàng". |
|
d) Tác giả thường bỏ ngỏ phần kết thúc trong sáng tác của mình. |
|
Một thế giới biệt lập của Trần Tuấn
Phải nói rằng Trần Tuấn có lối viết rất "ngang tàng". Điều đó làm cho những con chữ của anh đanh như búa gõ, mà cũng đằm như phù sa lắng dưới lòng sông dù dòng nước xoáy.
Trần Tuấn tên thật là Trần Ngọc Tuấn, sinh năm 1967 tại Hà Nội, quê gốc Quảng Ngãi. Anh được nhiều người biết đến với tư cách một nhà báo, hiện là Trưởng ban đại diện Báo Tiền Phong tại miền Trung. Thế nhưng Trần Tuấn còn viết rất nhiều thể loại, và rất thành công ở mảng ký và thơ. Cho đến nay, anh đã xuất bản ký sự nhân vật "Đừng gọi tôi là Lại Phiền Hà", "Vượt qua tiểu thuyết", bút ký "Uống cà phê trên đường của Vũ", ba tập thơ "Ma Thuật ngón", "Chậm hơn sự dừng lại" và mới đây nhất là "Sống là gì lâu quá đã quên".
Tập thơ "Sống là gì lâu quá đã quên" do NXB Đà Nẵng ấn hành vào quý I (2025) gồm hai phần "Thở" và "Kệ" với khoảng 40 thi phẩm đưa bạn đọc đến với thế giới biệt lập của Trần Tuấn. Một thế giới có thể đã bắt gặp ở các tập thơ trước: Cô đơn, lạnh lùng và những con chữ ân tình.
Phải nói rằng Trần Tuấn có lối viết rất "ngang tàng". Điều đó làm cho những con chữ của anh đanh như búa gõ, mà cũng đằm như phù sa lắng dưới lòng sông dù dòng nước xoáy. Cái "ngang tàng" ấy đi từ văn xuôi vào đến tận trong thơ - một thể loại vốn rất tình. Hãy xem sự "bất cần" của anh: "tôi không thể tha thứ cho đời/ đời không thể tha thứ cho tôi/ đời không cần tha thứ cho đời/ tôi không cần tha thứ cho tôi" ("Tôi và đời chẳng tha thứ cho nhau") hay "kệ/ buông/ kệ/ đợi/ kệ/ không/ kệ/ đang/ kệ/ mất/ kệ/ trông/ kệ/ rời" ("Kệ").
Phải chăng bởi vì quen ngụ cư trong chốn cô đơn nên anh mới có những nghĩ suy như thế? Anh cô đơn, hay đã lên đến đỉnh của cái tôi để rồi tạo nên sự "bất cần" cùng với những câu thơ với cái tôi độc tôn: "chẳng viết gì chỉ viết rằng tôi/ chẳng đọc gì chỉ đọc rằng tôi". Cái điệp khúc ấy cứ hát đi hát lại trong thi phẩm "Chẳng muốn gì chỉ muốn rằng" như sự khẳng định về sự tồn tại độc lập của cái tôi Trần Tuấn vậy.
Ý thức về cái tôi, ý thức về cuộc đời như vậy, nhưng có lúc anh tự hỏi: "sống là gì lâu quá đã quên/ người mệt xuống một buổi chiều thèm ngủ" ("Sống là gì lâu quá đã quên"). Tôi nhớ Trần Tuấn từng nói: "Chúng ta sống không thể thiếu cái chết được. Tôi chọn đối diện với cái chết". Đanh sắc và lạnh lùng, trầm tĩnh, tưởng như đã quen đối mặt với đối thủ đáng gờm nhất cuộc đời ấy, nhận diện cái chết đang tồn tại ngay trong cơ thể sống mà anh quên cả việc "sống là gì"? Trong phần "Thở" − một hoạt động sống nhưng nhắc nhiều tới cái chết, hầu như ở đâu đó cái chết cũng bảng lảng như sương: "đừng ai gọi cho tôi nữa", "nhớ chết như nhớ nhà"...
Thơ Trần Tuấn tựa như tính cách của một người đàn ông trầm tính, bắt người đọc phải tìm hiểu để thấy được tâm tư, tình cảm ẩn sâu bên trong. Giọng thơ dù đanh cứng, lạnh lùng nhưng vẫn "mênh mông bát ngát tình". Những dòng thơ "một mai chết/ hãy trồng tôi như cái cây/ để tôi mọc sâu xuống một cái bóng/ che cọng cỏ buồn ở phía bên kia" ("Đừng ai gọi cho tôi nữa") là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó. Vẫn còn có ý nghĩ như sẻ chia, như đồng cảm từ một hồn thơ tưởng chừng như vô tình, vô cảm. Để từ đây ta mới thấy anh nói "kệ" nhưng lại không bỏ qua điều gì, chẳng hề quên sống và khái niệm về nó. Và như thế thơ anh dường như là một sự nhắc nhở, hãy sống chậm rãi và cảm nhận sự sống vì "nhiều khi thở mặc nhiên là sống" ("Nghìn cánh hạc").
"Sống là gì lâu quá đã quên" còn gây ấn tượng bởi thủ pháp nghệ thuật, tạo nên một hiệu ứng đặc biệt làm cho việc làm thơ trở thành một trò chơi thú vị. Đơn cử như bài thơ "Có được không" như là sự hoán vị giữa ba từ: "Có được không/ được có không/ không được có/ không có được". Nhiều "ma thuật" như vậy được sử dụng trong 12 thi phẩm như "Kệ", "Chẳng muốn gì chỉ muốn rằng", "Đang", "Đâu",... cho thấy sự táo bạo và sáng tạo rất Trần Tuấn.
Mỗi bài thơ của Trần Tuấn như từng câu chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Có những bài thơ ngắn như kẻ kiệm lời, có những bài thơ dài nhưng như kẻ lười bày tỏ cảm xúc, nhưng dù dung lượng thế nào thì cũng là những gợi ý để ta đi giải mã thơ anh.
(Nguồn: Báo Hà Nội mới)
Trong những tác phẩm dưới đây, tác phẩm nào không phải sáng tác của Trần Tuấn?
Một thế giới biệt lập của Trần Tuấn
Phải nói rằng Trần Tuấn có lối viết rất "ngang tàng". Điều đó làm cho những con chữ của anh đanh như búa gõ, mà cũng đằm như phù sa lắng dưới lòng sông dù dòng nước xoáy.
Trần Tuấn tên thật là Trần Ngọc Tuấn, sinh năm 1967 tại Hà Nội, quê gốc Quảng Ngãi. Anh được nhiều người biết đến với tư cách một nhà báo, hiện là Trưởng ban đại diện Báo Tiền Phong tại miền Trung. Thế nhưng Trần Tuấn còn viết rất nhiều thể loại, và rất thành công ở mảng ký và thơ. Cho đến nay, anh đã xuất bản ký sự nhân vật "Đừng gọi tôi là Lại Phiền Hà", "Vượt qua tiểu thuyết", bút ký "Uống cà phê trên đường của Vũ", ba tập thơ "Ma Thuật ngón", "Chậm hơn sự dừng lại" và mới đây nhất là "Sống là gì lâu quá đã quên".
Tập thơ "Sống là gì lâu quá đã quên" do NXB Đà Nẵng ấn hành vào quý I (2025) gồm hai phần "Thở" và "Kệ" với khoảng 40 thi phẩm đưa bạn đọc đến với thế giới biệt lập của Trần Tuấn. Một thế giới có thể đã bắt gặp ở các tập thơ trước: Cô đơn, lạnh lùng và những con chữ ân tình.
Phải nói rằng Trần Tuấn có lối viết rất "ngang tàng". Điều đó làm cho những con chữ của anh đanh như búa gõ, mà cũng đằm như phù sa lắng dưới lòng sông dù dòng nước xoáy. Cái "ngang tàng" ấy đi từ văn xuôi vào đến tận trong thơ - một thể loại vốn rất tình. Hãy xem sự "bất cần" của anh: "tôi không thể tha thứ cho đời/ đời không thể tha thứ cho tôi/ đời không cần tha thứ cho đời/ tôi không cần tha thứ cho tôi" ("Tôi và đời chẳng tha thứ cho nhau") hay "kệ/ buông/ kệ/ đợi/ kệ/ không/ kệ/ đang/ kệ/ mất/ kệ/ trông/ kệ/ rời" ("Kệ").
Phải chăng bởi vì quen ngụ cư trong chốn cô đơn nên anh mới có những nghĩ suy như thế? Anh cô đơn, hay đã lên đến đỉnh của cái tôi để rồi tạo nên sự "bất cần" cùng với những câu thơ với cái tôi độc tôn: "chẳng viết gì chỉ viết rằng tôi/ chẳng đọc gì chỉ đọc rằng tôi". Cái điệp khúc ấy cứ hát đi hát lại trong thi phẩm "Chẳng muốn gì chỉ muốn rằng" như sự khẳng định về sự tồn tại độc lập của cái tôi Trần Tuấn vậy.
Ý thức về cái tôi, ý thức về cuộc đời như vậy, nhưng có lúc anh tự hỏi: "sống là gì lâu quá đã quên/ người mệt xuống một buổi chiều thèm ngủ" ("Sống là gì lâu quá đã quên"). Tôi nhớ Trần Tuấn từng nói: "Chúng ta sống không thể thiếu cái chết được. Tôi chọn đối diện với cái chết". Đanh sắc và lạnh lùng, trầm tĩnh, tưởng như đã quen đối mặt với đối thủ đáng gờm nhất cuộc đời ấy, nhận diện cái chết đang tồn tại ngay trong cơ thể sống mà anh quên cả việc "sống là gì"? Trong phần "Thở" − một hoạt động sống nhưng nhắc nhiều tới cái chết, hầu như ở đâu đó cái chết cũng bảng lảng như sương: "đừng ai gọi cho tôi nữa", "nhớ chết như nhớ nhà"...
Thơ Trần Tuấn tựa như tính cách của một người đàn ông trầm tính, bắt người đọc phải tìm hiểu để thấy được tâm tư, tình cảm ẩn sâu bên trong. Giọng thơ dù đanh cứng, lạnh lùng nhưng vẫn "mênh mông bát ngát tình". Những dòng thơ "một mai chết/ hãy trồng tôi như cái cây/ để tôi mọc sâu xuống một cái bóng/ che cọng cỏ buồn ở phía bên kia" ("Đừng ai gọi cho tôi nữa") là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó. Vẫn còn có ý nghĩ như sẻ chia, như đồng cảm từ một hồn thơ tưởng chừng như vô tình, vô cảm. Để từ đây ta mới thấy anh nói "kệ" nhưng lại không bỏ qua điều gì, chẳng hề quên sống và khái niệm về nó. Và như thế thơ anh dường như là một sự nhắc nhở, hãy sống chậm rãi và cảm nhận sự sống vì "nhiều khi thở mặc nhiên là sống" ("Nghìn cánh hạc").
"Sống là gì lâu quá đã quên" còn gây ấn tượng bởi thủ pháp nghệ thuật, tạo nên một hiệu ứng đặc biệt làm cho việc làm thơ trở thành một trò chơi thú vị. Đơn cử như bài thơ "Có được không" như là sự hoán vị giữa ba từ: "Có được không/ được có không/ không được có/ không có được". Nhiều "ma thuật" như vậy được sử dụng trong 12 thi phẩm như "Kệ", "Chẳng muốn gì chỉ muốn rằng", "Đang", "Đâu",... cho thấy sự táo bạo và sáng tạo rất Trần Tuấn.
Mỗi bài thơ của Trần Tuấn như từng câu chuyện có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Có những bài thơ ngắn như kẻ kiệm lời, có những bài thơ dài nhưng như kẻ lười bày tỏ cảm xúc, nhưng dù dung lượng thế nào thì cũng là những gợi ý để ta đi giải mã thơ anh.
(Nguồn: Báo Hà Nội mới)
Điền thông tin thích hợp vào chỗ trống.
− Trần Tuấn sinh năm tại Hà Nội, quê gốc ở Quảng Ngãi.
− Trần Tuấn được nhiều người biết đến với tư cách là .
− Ông có lối viết rất , đi từ văn xuôi vào đến tận trong thơ.
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Sắp xếp các nội dung dưới đây theo đúng trình tự các phần của văn bản "Cà Mau quê xứ".
- Mục đích của tác giả khi đến Cà Mau.
- Tình cảm, cảm xúc của tác giả dành cho Cà Mau.
- Khung cảnh và cuộc sống của người Cà Mau.
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Tác giả đến với Mũi Cà Mau với tâm thế như thế nào? (Chọn 2 đáp án)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, tác giả đến với Mũi Cà Mau để đi chơi, nhưng ở đây, đi chơi cũng có nghĩa là đến với mới, đi tìm niềm hứng khởi mới, để được bằng tất cả các giác quan và .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Vì sao với tác giả Trần Tuấn − người viết tản văn − những trải nghiệm thực tế qua chuyến đi Cà Mau như vậy vô cùng quan trọng? (Chọn 2 đáp án)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Nối các chi tiết dưới đây với ý nghĩa tương ứng.
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Chi tiết nào dưới đây thể hiện rõ cảm giác thiêng liêng và chót vót của vị trí địa lý Mũi Cà Mau?
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, hình ảnh " và hoàng hôn treo trên cùng một cây đước" là cách thể hiện sinh động tính chất hai mặt độc đáo của vùng .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Chi tiết nào dưới đây thể hiện phẩm chất siêng năng, biết sử dụng lợi thế tự nhiên của con người vùng Đất Mũi?
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Qua văn bản Cà Mau quê xứ, chúng ta biết thêm về khó khăn của con người vùng Đất Mũi. Một trong những khó khăn mà người dân gặp phải đó là họ nuôi bị ngạt thở vì . Do đó, người dân phải đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ, trong lành. Tuy nhiên, làm vậy sẽ ảnh hưởng đến hệ sinh thái trên Đất Mũi bởi chính là một phần của mảnh đất này.
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Qua văn bản Cà Mau quê xứ, có thể thấy người dân vùng Đất Mũi chấp nhận lăn lộn, đấu tranh, thậm chí có khi phải để bảo vệ . Ở nơi đây, sinh mệnh của người dân gắn chặt với sự mất còn của .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, tác giả đã liên tưởng, nhắc đến những nhà thơ, nhà văn nào dưới đây? (Chọn 3 đáp án)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, tác giả liên tưởng, nhắc đến một số nhà văn, nhà thơ cùng những kỉ niệm và các viết về Cà Mau. Qua đó, chúng ta thấy rằng Mũi Cà Mau là miền đất khơi gợi nhiều cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ. Đến với Mũi Cà Mau cũng là đến với một vùng , vì thế, cầm bút viết về vùng đất này, tác giả không khỏi cảm thấy có những .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Chi tiết nào dưới đây thể hiện rõ sự xúc động kín đáo mà sâu sắc của người viết khi rời Mũi Cà Mau?
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
− Qua văn bản Cà Mau quê xứ, có thể thấy rằng người viết đến với Mũi Cà Mau với tâm thế nhẹ nhàng, nhưng kì thực là để thoả nỗi "khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới". Những rung động , tức thì của tâm hồn khi tiếp xúc với con người và cảnh vật đang thay thế cho sự hiểu biết về một vùng đất qua của những người đi trước.
− Chất trữ tình của bài tản văn vừa được thể hiện (người viết tự bộc lộ cảm xúc), vừa được thể hiện (những hình ảnh khách quan của cuộc sống có sức lay động tình cảm người đọc nhờ cách của tác giả). Chất trữ tình hầu như có mặt từ đầu đến cuối văn bản Cà Mau quê xứ, trở thành yếu tố nổi trội, đúng với đặc trưng của .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, sự sáng tạo về ngôn ngữ được thể hiện như thế nào? (Chọn 3 đáp án)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, tác giả đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật và biện pháp tu từ gì? (Chọn 2 đáp án)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Qua văn bản Cà Mau quê xứ, có thể thấy rằng tác giả dường như đã dành một tình cảm cho mảnh đất Cà Mau. Mọi thứ ở nơi đây diễn ra một cách nhẹ nhàng, khiến tác giả cảm thấy và dần coi đây như quê hương của mình. Không chỉ vậy, người dân nơi đây đều rất cần cù, chịu khó, làm lụng vất vả để , đặc biệt, họ rất thật thà và , khiến tác giả càng thêm thương mến con người và mảnh đất nơi đây hơn.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Cà Mau quê xứ
(Trích Uống cà phê trên đường của Vũ)
Trần Tuấn
Ra Mũi Cà Mau, nhiều người hỏi "Đi làm gì?". Trời đất, còn câu hỏi nào lối hơn thế không? Tôi đều trả lời một câu "Đi chơi.".
Đi chơi, thế thôi! Làm gì là làm gì, khi bạn đặt chân tới Mũi? Có lẽ trừ những anh bạn đồng nghiệp và không đồng nghiệp hộ khẩu đặt ngay xứ này thì mới dám nói "Nào, hôm nay, ta ra Mũi làm cái này, cái nọ". Đi chơi, thực ra nói vậy cũng là để đánh lừa cái ổ cứng xúc cảm đã ấp ứ tự bao giờ, đánh lừa bộ xi đi võng mạc, đánh lừa bộ khứu giác, vị giác đã nghẽn bụi đời quá lâu đang khát thèm hạt phù sa ròng ròng tươi mới trong trí tưởng tượng thuở xa lắc. Để khi khoác ba lô lần đầu về Đất Mũi, rằng, thôi thì, ta cứ lỏng tay thơ thẩn với Cà Mau.
Trong ổ cứng cũ mèm của tôi từ thuở nào còn lưu những cái phai Nguyễn Tuân, Anh Đức, Xuân Diệu từ hơn bốn mươi năm trước. Những trang kí, trang thư, trang thơ gieo mầm dưới mỗi câu mỗi chữ là hạt hi vọng ứ nghẹn khát khao bung nở cây trái hòa bình. Và trong những cái phai ấy là ngổn ngang xác giặc, hầm chông loang máu sình lầy, là những đoàn người tranh đấu, máu và nước mắt của bà má Năm Căn, là vệt than đước đen nhức nhối trên má em bé Cà Mau mà nụ hôn cuối cùng của người cha lưu dấu lại... Những cái phai ấy, bây giờ mở ra xem lại, thấy thật khó và chậm. Bởi nó quá nặng. Tới bây giờ tôi ưa những dòng này của cô Tư (nhà văn Nguyễn Ngọc Tư) hơn: "Trẻ con chạy rượt, u hơi ở trên sàn nhà, nhảy lò cò bên những bụi hẹ, bụi ớt lơ thơ trồng trong thúng. Cá thòi lòi dạn dĩ theo con nước chạy rột rẹt dưới sàn nhà, có lúc ngóc đầu lên, nhìn thom lom, ý hỏi ai đây ta, ai mà lặn lộn tới xứ bùn sình rừng rú này, ai mà ngó tui thiếu điều lòi con mắt ra, lạ lắm sao?". Và tôi cũng ưa nhớ tới câu chuyện này hơn, của lão làng Sơn Nam kể về chúa đảng Cánh Buồm Đen và ngọn roi kì hiểm chuyên trị ác độ nhơn của Tư Hiền dọc ngang vùng đất Mũi thời mạt pháp, nhớ "Đạo phát cỏ" dóc tổ đến lạ lùng của ông thầy Quýt,...
Mà cũng thiệt lạ! Bàn chân tôi từng đặt lên núi non hùng vĩ địa đầu đất nước, từng đi xa Tổ quốc hàng vạn dặm, vậy mà một doi đất con con bằng phẳng hao hao một góc Gò Nổi miền Trung này lại khiến tôi và anh bạn thi sĩ đồng hành mau chóng trở thành những kẻ nông nổi kì quặc. Giữa buổi trưa nắng tưng bừng muốn khô quăn mấy đọt phù sa bên mỏm non sông, chúng tôi hì hục lôi tập thơ còn thơm mùi mực của anh bạn ra để... đốt và thả xuống biển! Chỉ vì trong tập ấy có bài thơ về đất phương Nam, anh bạn hứng khởi viết trong tưởng tượng từ khi nào. Từng nghe anh bạn nhà văn Đất Mũi kể đã chứng kiến đủ kiểu xúc động của các vị khách khi ngược ngàn cây số về đây. Người ôm cây cột mốc, kẻ ôm cây đước, kẻ lại nằm lăn xuống bùn lầy để... khóc vì sướng! Còn vô khối người vốc nắm đất, mang chai nước biển về đặt trên giá sách hoặc tặng người thân ở nhà. Giờ tới lượt bạn tôi gửi lại nơi này mấy đọt phù sa thơ kèm chút gió Lào cố quận. Trương Lệ Duyên, cô bé ở ban quản lí Khu du lịch văn hóa Mũi Cà Mau bật cười "Các anh ngộ thiệt, em chưa từng thấy!". Áo trắng của Duyên hắt vào tôi một mảng mây ngàn tuổi.
− Hay là chỗ này Nguyễn Bính dằn chén hắt rượu qua đầu buổi Hành phương Nam ấy, Thảo ơi! "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
− Nhớ nhà rồi à, mới đi có sáu ngày − chàng thi sĩ thầm thì − "Giang hồ như... ngươi giang hồ vặt/ Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà". Như Nguyễn Bính mới là thứ thiệt, sáu tháng ngang dọc miền Tây không buồn... đánh răng!
Thế là cãi nhau, hai thằng miền Trung giữa cái nắng miệt mài bên những hạt phù sa sinh nở khởi từ hai chữ "quê nhà" ấy của thi sĩ đất Bắc. Chúng tôi bắt gặp ở chốn tận cùng này hai chữ thiệt hay, đó là "quê xứ". Cả tuần nay, lang thang từ Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu,... rồi xuống miệt biển Kiên Giang, ra Phú Quốc vòng lên Long Xuyên, Cao Lãnh..., dọc đường chúng tôi đều nghe từ chợ tới thuyền, từ xe lam, xe lôi tới thổ mộ một con chữ thật du dương mà xa lăng lắc: "Xứ". "Nhà em ở Ngã Năm Sóc Trăng, xứ ấy qua đây mất gần một buổi đò" − cô hàng trái cây trên chợ nổi Phụng Hiệp kẹp hai đứa nhỏ, chao chao cái rổ rau sầu đâu xanh mướt. "Tui từ xứ Bạc Liêu qua" − ông lão xe lôi nằm ghếch chân hút thuốc gặp ở Long Xuyên.
"Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa" − lảnh lót câu hát buồn vẫn thường nghe đây đó. "Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái cọp tùa bằng trâu". Không biết nhà văn xứ Quảng Nguyễn Thành Long − tác giả Lặng lẽ Sa Pa đã về thấu miệt này chưa mà dịch Te-rơ đê hom-mơ (Terre des hommes) của Xanh-tơ Ê-xu-pe-ri (Saint Exupéry) thành Quê xứ con người hay đến vậy?
... Giờ thì mấy anh em tôi ngồi cởi trần lai rai với gió trong ngôi nhà số 1. Cảm giác về xứ thật chon von, khi được ngồi trong chính ngôi nhà cuối cùng của dải đất hình chữ S, ngôi nhà được đánh số 1 trong hộ khẩu mà như thừa nhận của chủ nhà, anh Nguyễn Hoàng Phúc, nó là nhà đầu tiên tính từ Mũi trở vào của ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau này. Ngôi nhà sàn thưng lá dừa nước nằm cheo leo giữa biển, tách bạch hẳn với xóm nhà bên kia, được dẫn ra bởi cây cầu lắt lẻo kết từ thân cây đước. Trên nhà sàn có đôi chục đàn bà con gái đang ngồi lột ghẹ lấy thịt, nói cười chọc ghẹo rồn rảng. Nhà anh Phúc chị Tuyết là cơ sở gia công mặt hàng này, dân nơi này vẫn gọi là vựa. Ghẹ anh chị mua về phân loại, loại nhất, nhì và thấp nhất là loại ghẹ vạt. Một kí ghẹ loại nhất giá 43 000 đồng, loại nhì 23 000 đồng, loại vạt chỉ 6 000 đồng. Hấp lên, mỗi kí ngót xuống còn tám lạng, lột ra thịt cứ mười kí tươi mới được một kí thịt. Cùng đám chị em, chị Tuyết thoăn thoắt xếp từng lát thịt ghẹ chắc nịch vào từng hộp nhựa, rồi xếp vào thùng xốp. Thịt ghẹ được ướp đông rồi bán qua Hà Tiên, và cả xuất khẩu sang Cam-pu-chia (Campuchia). Vào vụ, vựa ghẹ nhà anh chị mướn 20 đến 30 nhân công, chủ yếu là chị em, có cả các em gái nhỏ quanh ấp Mũi, ngày làm giỏi mỗi người được năm, sáu chục ngàn đồng, bình thường cũng ba chục ngàn...
− Ngưng tay làm với anh em một li, anh Ba! − Anh bạn đồng nghiệp của tôi thường trú ở Cà Mau cất tiếng mời.
Ba Phúc vốc thêm mấy con ghẹ mới hấp thiệt ngon bỏ vào đĩa, xề lại "xây chừng" một li rồi đứng dậy:
− Mấy anh cứ lai gai đi, em mấy hôm ể mình, phải nghỉ ít hôm.
[...] Nhìn xuống biển dưới sàn, thấy cả bầy cá bơi lượn lờ giương mắt nhìn lên, lại nhớ tới câu văn của cô Tư. Hôm tôi về Cà Mau, cô Tư rục rịch soạn đồ ra phố cổ Hội An dự hội với các nhà văn trẻ. Nghe nói là lần đầu tiên cô được đi xa đến vậy. Có một lần cô Tư trả lời trên báo Tiền Phong Chủ nhật, giọng tung tửng mà tôi cứ nhớ mãi, đại ý: Nếu sinh ra ở thành phố, chắc gì tui đã... viết văn. Ở đó cuộc sống sôi động lắm, làm sao tui cô độc đến nỗi phải viết để khỏi phải nói chuyện một mình!
Bên cạnh tôi, những cây đước đóng mình xuống phù sa vóc dáng trầm ngâm, bình minh và hoàng hôn của một ngày treo trên cùng một cây đước. Lúc nãy ngồi ở nhà "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm (chúng tôi gọi đùa về chức danh Phó Chủ tịch xã Đất Mũi của anh Liêm như vậy), chợt nghe câu chuyện bề bộn về con tôm và cây đước. Một dạo khi con tôm Cà Mau còn "ôm gốc đước", cơ man những vạt rừng đước cường tráng xanh rậm rì đã phải dời chỗ nhường cho tôm. Nhưng rồi đến lúc con tôm ngạt thở vì sình lầy, người ta lại kéo nhau đốn hạ đước để cho ra những vuông tôm sạch sẽ trong lành. Những vạt đước lui dần, cứ thế lui dần như mang theo những bình minh, hoàng hôn lùi xa con người. [...] "Phó Mũi" Lê Hoàng Liêm vốn xuất thân từ lính biên phòng, vặn tấm lưng gầy gò trên ghế, gương mặt đen sạm cứ quặn lại: "Khó lắm các anh à. Là cả một cuộc đấu tranh lớn của chúng tôi đấy! Cà Mau mà không còn đước thì còn gì nữa đâu". Tôi ngồi đó, chọt hình dung về những trái đước bắt gặp khi ngồi trên thuyền xuyên qua những vàm những lạch. Những trái đước đeo trên cây như những hạt phù sa, đến một ngày cắm thẳng xuống phù sa, mọc lên những thân đước mới.
Về Sài Gòn, tôi lẩn mẩn với câu hỏi, không biết sau khi nước non liền dải cụ Nguyễn có về thăm Cà Mau chưa, sau cái kí Vân cái tiếng đội Cà Mau ấy, trong đó ví đất Mũi này như "ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm". Anh bạn thi sĩ Phan Hoàng mách: "Hỏi già Sáng! Nguyễn Tuân xuống miền Tây thì chỉ có Nguyễn Quang Sáng tháp tùng". Bên đầu kia điện thoại, giọng già Sáng khề khà rặt chất Cánh đồng hoang: "Năm 1976, tui có đưa Nguyễn Tuân xuống miền Tây, nhưng lần ấy ổng chỉ dừng ở Châu Đốc (An Giang), không dìa Cà Mau. Những lần sau ổng vào Nam, nhưng tui nhớ cũng chỉ ở lại Sài Gòn, hình như cũng hổng xuống xứ đó".
Nguyễn Tuân chưa về tới Cà Mau? Hay là Nguyễn đi theo cách của mình, một mình thơ thẩn dò đường ra Mũi không để ai biết ai hay, như kiểu ông từng vào miền Trung tha thẩn với Cửa Đại? Riêng chi tiết Nguyễn Tuân về núi Sam (Châu Đốc) cũng rặt một kiểu của Nguyễn. Nơi ấy thờ Bà Chúa Xứ và có lăng Thoại Ngọc Hầu − Nguyễn Văn Thoại, người có công khai khẩn vùng đất mới này với công trình kì vĩ là con kênh Vĩnh Tế dài 90 cây số đào suốt năm năm trời. Nguyễn đã tìm về đây, để tạ ơn người khai sinh ra quê xứ.
Tôi về, mang theo cái nhìn lánh đen như than đước của cô gái không tên gặp ở bến Năm Căn. Than hầm từ thân cây được xứ này nghe nói tốt hơn mọi thứ than củi trên đời, đượm bền hơi lửa và không hề có khói. Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt cay nhoè.
Đất Mũi, tháng 5/2006
(Trần Tuấn, Uống cà phê trên đường của Vũ, NXB Hội Nhà văn − Công ti cổ phần Sách Thái Hà, Hà Nội, 2017, tr. 162 − 169)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Trong văn bản Cà Mau quê xứ, cách thể hiện cảm xúc của tác giả ở phần kết rất độc đáo. Ông không hề nói thẳng rằng mình lưu luyến, không muốn rời xa mảnh đất này, thay vào đó, ông lấy hình ảnh − một thứ quà ông được người dân tặng, đó là vật tượng trưng cho tình cảm , chân chất của người con Đất Mũi. Tác giả cầm lấy nó, chia tay mảnh đất này trong sự , lưu luyến không nỡ rời xa, được thể hiện rõ nét qua câu cuối: "Không có khói, mà sao bước chân lên tàu rời Mũi, mắt tôi chợt quay nhoè.".
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây