Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề thi tham khảo Sở Giáo dục và Đào tạo Hoà Bình SVIP
Đọc đoạn trích sau:
MỞ RỪNG
(Trích)
(Tóm tắt: Tiểu thuyết Mở rừng được nhà văn Lê Lựu sáng tác trong khoảng thời gian 1973 – 1975. Tác phẩm tái hiện cuộc sống chiến đấu gian khổ, kiên cường của những người lính Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ. Đoạn trích dưới đây thuộc chương VIII, kể về Vũ – anh lính lái xe – tranh thủ nghỉ phép về thăm nhà. Thị xã quê anh vừa bị bom Mỹ tàn phá, nhà cửa đổ nát, bố và em trai Phúc đã mất, mẹ và em gái Hạnh phải sơ tán, ở nhờ nhà bác Xuân. Trên đường về, Vũ được bác Xuân kể lại tình cảnh đau thương và dặn anh giấu gia đình việc mình đã biết. Khi gặp Vũ, mẹ và em gái cũng nén đau thương, giấu kín mất mát để anh yên tâm trở lại chiến trường. Em gái Vũ, khi trò chuyện với anh, lo anh biết chuyện nên liên tục dò hỏi.)
– Anh đã gặp ai ở thị xã chưa? Mà có quen nhà ta ý.
– Chưa gặp ai, kể cả lạ lẫn quen. Anh có đi đường ấy đâu mà gặp.
– Thế ạ. Giá anh đi đằng ấy thì gặp cậu mới lị em Phúc vẫn coi nhà ở trên phố ấy.
Vũ cố nuốt một làn hơi trồi nóng ở cổ.
– Ừ. Không thấy cậu với em Phúc ở đây, anh cũng đoán thế.
– Thằng Phúc nó học giỏi lắm, viết chính tả được những chín điểm đấy anh ạ.
Vũ vội vàng ngẩng mặt nhìn lên mái nhà. Lúc sau anh từ từ đứng dậy, vẫn ngửa mặt nhìn vào chỗ khuất ánh đèn, giả vờ đang tìm kiếm một cái gì đó để nén tiếng khóc khỏi bật lên. "Em ơi, Hạnh ơi, em cũng biết nói dối anh như một người lớn rồi ư! Trời ơi, ai đã dạy cho em sự chịu đựng kì lạ ấy.". Bà giáo không ngờ con bé Hạnh giữ được với anh nó như thế, khiến bà phải ba lần quay mặt vào tường nuốt nước mắt giàn sặc xuống mũi. Còn bác Xuân gái bấu hai tay vào nhau suốt, dại nhìn, chốc chốc bác lại chạy xuống bếp dụi lửa và lau nước mắt. Thế ra, ba mẹ con vẫn giấu nhau, bác lại nói hết mọi nhẽ với cháu Vũ rồi có tội không? Biết nói lại với cháu nó thế nào bây giờ! Bác vẫn đứng ngoài sân dõi theo từng cử động của hai anh em Vũ và khóc thầm. Ở trong nhà, con Hạnh nhổm dậy gọi: "Anh Vũ ơi, khi nào hoà bình anh lái ô tô đưa em với em Phúc đi Hà Nội xem duyệt binh nhá!". Bác gái Xuân vội vàng chạy đi. Nhưng không thể nào nén lại được nữa, đến giữa sân bác bật lên thành tiếng khóc. Tiếng khóc đầy lên, lạnh và nhọn xuyên vào nhà khiến con bé Hạnh lao bắn ra sân kêu:
– Anh Vũ ơi! Em Phúc ơi, cậu ơi! Con lạy mợ con không giữ được đâu, giời ơi!
Bà giáo đứng dậy hai mắt mở trừng trừng nhìn Vũ. Bác gái Xuân đứng ngoài cửa cũng nhìn vào Vũ. Con Hạnh nén tiếng khóc nhìn qua khe tiếp xem anh có sao không. Dường như mọi nỗi lo lắng đều sáp lại khuôn mặt xám xanh đã từng chịu đựng bao nhiêu thử thách ở mặt trận, lúc này có chịu đựng được thêm nữa không, có đủ sức trở về với đồng đội nữa không? Không nhìn ai, Vũ vẫn nhận ra nỗi lòng mẹ, sự sợ hãi của cái Hạnh, cả tấm lòng thương cảm của bác chủ nhà. Mọi người đang nhìn anh, nhìn vào chân dung người lính ở chiến trường đây. Vũ nghĩ thầm. Anh đi lại bên mẹ:
– Mợ ơi, con biết hết mọi chuyện từ trước khi về nhà rồi mợ ạ.
Tiếng mẹ bị dìm nấc trong nước mắt:
– Mợ chỉ sợ... con... on. Vũ ơi!
– Dạ! Con rất hiểu mợ ạ. Mợ đừng khóc làm em Hạnh nó sợ. Mợ gọi nó vào nói chuyện với con. Bác chủ nhà đang chuẩn bị mọi thứ cho con đi hở mợ?
– Ừ, bác quý hoá lắm. Mợ không khóc nữa đâu. Con xuống bếp nói chuyện với bác. “Đêm nằm năm ở” con ạ. Những ngày qua không có bác thì – Tiếng nấc chẹn trong cổ bà giáo song, bà lại luống cuống: – Thôi mợ không khóc nữa đâu, mợ lau nước mắt đây rồi, con có cố ở nhà được vài ngày nữa không?
– Không thể được đâu mợ ạ. Đêm mai anh em tập trung nhận xe cả rồi. Chỉ có người không thì con có thể xin phép về ở nhà thêm với mợ, nhưng mỗi người một xe không có ai lái thay.
– Ừ thôi, việc đi cứ phải đi, mợ hỏi con thế thôi. Cứ mạnh bước mà đi. Mọi sự ở nhà đã có mợ chịu tất, con đừng buồn phiền, lo nghĩ gì con nhỏ.
Lời mẹ khẩn cầu, những mong con để lại cho mẹ tất cả mọi yếu đuối, lo toan, chỉ mang đi mọi sự vững vàng khoẻ mạnh của con, của mẹ, của em con, của cậu con và em Phúc đã nằm xuống. Tự vì mẹ không chỉ là người mẹ thông thường, mẹ còn là mẹ bộ đội đang còn đi đánh giặc, mẹ là mẹ người chiến sĩ phải lên đường ngay đêm nay cho kịp với bao nhiêu đồng đội đang chờ đợi con ở chỗ tập trung. Có hiểu lòng mẹ không con! Mẹ thèm cái mùi mồ hôi mặn chua ở bộ quần áo ướt xịu của con, mẹ muốn ghì chặt con trong hai cánh tay mẹ. Nhưng việc đánh giặc, cứu nước của con mẹ không cản đâu. Con phải mạnh bước mà đi. Có khóc thì khóc hết với mẹ đi, trút hết cho mẹ đi, đến chỗ chúng bạn không được khóc nữa, không được buồn phiền nữa. Có hiểu lòng mẹ không con. Mẹ không nói ra được điều gì lúc này đâu!
(Trích Tác phẩm văn học được giải thưởng Nhà nước, Lê Lựu, NXB Hội nhà văn, 2015, tr.389-391)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra một dấu hiệu hình thức thể hiện ngôn ngữ thân mật ở phần in đậm của đoạn trích.
Câu 2 (0,5 điểm): Trong đoạn trích, Vũ có những hành động nào để nén tiếng khóc khỏi bật lên?
Câu 3 (1,0 điểm): Nêu hiệu quả của điểm nhìn được sử dụng trong những câu văn sau:
Không nhìn ai, Vũ vẫn nhận ra nỗi lòng mẹ, sự sợ hãi của cái Hạnh, cả tấm lòng thương cảm của bác chủ nhà. Mọi người đang nhìn anh, nhìn vào chân dung người lính ở chiến trường đây. Vũ nghĩ thầm.
Câu 4 (1,0 điểm): Anh/ Chị hiểu như thế nào về nhân vật Vũ qua câu trả lời mẹ: Không thể được đâu mợ ạ. Đêm mai anh em tập trung nhận xe cả rồi. Chỉ có người không thì con có thể xin phép về ở nhà thêm với mợ, nhưng mỗi người một xe không có ai lái thay.
Câu 5 (1,0 điểm): Từ đoạn trích trên, hãy nêu một thông điệp ý nghĩa nhất với anh/ chị. Lí giải tại sao.
Hướng dẫn giải:
Câu 1. Chỉ ra một dấu hiệu hình thức thể hiện ngôn ngữ thân mật ở phần in đậm của đoạn trích.
Thí sinh chỉ ra một trong số các dấu hiệu sau:
– Từ ngữ thể hiện thái độ thân thiện, gần gũi, giàu cảm xúc (“anh”, “em Phúc”, “nhà ta”, “cậu”, “mới lị”, “ạ”, “ấy”, “ý”,…).
– Cấu trúc câu văn: câu rút gọn/ câu tỉnh lược (“Mà có quen nhà ta ý.”, “Chưa gặp ai, kể cả lạ lẫn quen.”,…).
Câu 2. Trong đoạn trích, Vũ có những hành động để nén tiếng khóc khỏi bật lên: “vội vàng ngẩng mặt nhìn lên mái nhà”, “từ từ đứng dậy, vẫn ngửa mặt nhìn vào chỗ khuất ánh đèn, giả vờ đang tìm kiếm một cái gì đó”.
Câu 3.
Nêu hiệu quả của điểm nhìn được sử dụng trong những câu văn sau: Không nhìn ai, Vũ vẫn nhận ra nỗi lòng mẹ, sự sợ hãi của cái Hạnh, cả tấm lòng thương cảm của bác chủ nhà. Mọi người đang nhìn anh, nhìn vào chân dung người lính ở chiến trường đây. Vũ nghĩ thầm.
– Điểm nhìn bên trong, điểm nhìn từ nhân vật Vũ.
– Hiệu quả:
+ Giúp thể hiện chân thực, sâu sắc tâm trạng và vẻ đẹp tâm hồn của Vũ (sự tinh tế, nhạy cảm; nỗi xúc động, xót xa; ý thức cao về bổn phận, trách nhiệm của người lính và cách ứng xử trước nỗi đau,...); góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm (tình cảm gia đình, nỗi đau chiến tranh, phẩm chất cao đẹp của người lính, của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ); thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của tác giả đối với nhân vật.
+ Tạo nên sự sinh động, hấp dẫn và chiều sâu cảm xúc trong nghệ thuật tự sự của tác phẩm.
Câu 4. Nhân vật Vũ qua câu trả lời mẹ: Không thể được đâu mợ ạ. Đêm mai anh em tập trung nhận xe cả rồi. Chỉ có người không thì con có thể xin phép về ở nhà thêm với mợ, nhưng mỗi người một xe không có ai lái thay.
– Vũ sống có kỉ luật, kiên quyết dứt khoát trong việc thực hiện nhiệm vụ (Không thể được đâu mợ ạ. Đêm mai anh em tập trung nhận xe cả rồi.); ý thức rõ vai trò trách nhiệm của bản thân trước tập thể, nghĩa vụ của cá nhân đối với đất nước (nhưng mỗi người một xe không có ai lái thay).
– Anh thấu hiểu và trân trọng tình yêu thương của mẹ (Vũ động viên mẹ: Chỉ có người không thì con có thể xin phép về ở nhà thêm với mợ).
=> Câu nói thể hiện sự hi sinh cao cả, sẵn sàng gác tình riêng để làm tròn bổn phận với đất nước, dân tộc của người lính thời chống Mỹ.
Câu 5.
– Học sinh nêu được một thông điệp phù hợp với nội dung, tư tưởng của đoạn trích.
Gợi ý:
+ Tình yêu gia đình là sức mạnh vượt qua thử thách.
+ Hi sinh vì tổ quốc và gia đình là sự cao cả.
+ Sự kiên cường giúp con người vượt qua khó khăn.
+ …
– Lí giải làm sáng rõ thông điệp.
Câu 1 (2,0 điểm):
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích nhân vật người mẹ của Vũ trong đoạn trích phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm):
Trước Diễn đàn Tiếng nói tuổi trẻ – Hành động của Đoàn, một bạn trẻ đã chia sẻ: Là một đoàn viên, thanh niên trong thời đại mới, mình luôn tự hào vì được sống trong một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ. Nhưng đi cùng niềm tự hào ấy là câu hỏi lớn: Thanh niên Việt Nam cần làm gì để không chỉ bắt kịp mà còn dẫn dắt sự thay đổi? (Trích Khát vọng làm chủ kỷ nguyên mới, Nữ Vương, thanhnien.vn, ngày 09/03/2025)
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) để trả lời câu hỏi trên.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (đoạn văn khoảng 200 chữ). Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Phân tích nhân vật người mẹ của Vũ trong đoạn trích phần Đọc hiểu.
c. Viết được đoạn văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo hệ thống ý phù hợp. Có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau miễn là hợp lí và thuyết phục. Sau đây là gợi ý:
* Giới thiệu đoạn trích tác phẩm “Mở rừng”, tác giả Lê Lựu và vấn đề nghị luận: Nhân vật người mẹ của Vũ – giàu tình yêu thương con, yêu đất nước.
* Phân tích:
– Tính cách, phẩm chất nhân vật người mẹ được thể hiện qua lời nói, hành động, diễn biến tâm trạng:
+ Tình yêu thương con sâu sắc (mẹ kìm nén nỗi đau, giấu con mất mát của gia đình, sợ ảnh hưởng đến con; lo lắng, sợ hãi khi con trai đã biết sự thật; kịp thời trấn an, động viên con; luôn muốn gần con nhưng sẵn sàng ủng hộ quyết định của con;...).
+ Tình yêu đất nước cao cả, sẵn sàng cống hiến, hi sinh vì đất nước (mẹ sợ con bị chi phối bởi nỗi đau gia đình mà không hoàn thành nhiệm vụ; động viên con lên đường làm tốt bổn phận; sẵn sàng nhận hết mọi nỗi khổ về bản thân để con yên tâm chiến đấu, dù thương con vô bờ “Nhưng việc đánh giặc, cứu nước của con mẹ không cản đâu.”...).
=> Nhân vật mẹ của Vũ là biểu tượng đẹp đẽ của những người mẹ Việt Nam thời chống Mỹ: Yêu thương con vô bờ nhưng luôn sẵn sàng hi sinh tình cảm riêng vì tình yêu đất nước.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc: Điểm nhìn linh hoạt, tình huống éo le, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, chi tiết giàu ý nghĩa, ngôn từ trong sáng, tự nhiên, giàu cảm xúc.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2.
a. Đảm bảo bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận:
Đảm bảo yêu cầu về bố cục và dung lượng (khoảng 600 chữ) của bài văn.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Thanh niên Việt Nam cần làm gì để không chỉ bắt kịp mà còn dẫn dắt sự thay đổi của đất nước?
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hưởng sau:
* Mở bài:
– Giới thiệu được vấn đề nghị luận: Thanh niên Việt Nam cần làm gì để không chỉ bắt kịp thời đại mà còn dẫn dắt sự thay đổi của đất nước?
– Nêu khái quát quan điểm của bản thân về vấn đề nghị luận.
* Thân bài:
– Giải thích:
+ Bắt kịp thời đại: Theo kịp tốc độ phát triển của thời đại.
+ Dẫn dắt sự thay đổi của đất nước: Thanh niên trở thành lực lượng tiên phong, góp phần kiến tạo những giá trị mới, mở đường cho tiến bộ xã hội, cho sự phát triển của đất nước.
=> Thanh niên chính là lực lượng nòng cốt, mang sức trẻ, trí tuệ và tinh thần đổi mới để thực hiện điều đó.
– Bàn luận:
+ Thanh niên Việt Nam không chỉ bắt kịp thời đại mà còn phải dẫn dắt sự thay đổi của đất nước vì: Thanh niên là lực lượng đông đảo và sung sức nhất trong xã hội, nắm giữ vận mệnh tương lai của đất nước. Thời đại mới đòi hỏi tư duy mới, hành động mới; đất nước đang chuyển mình, cần những con người tiên phong để thúc đẩy sự phát triển bền vững, sáng tạo.
+ Để không chỉ bắt kịp thời đại mà còn phải dẫn dắt sự thay đổi của đất nước, thanh niên Việt Nam cần:
++ Nhận thức rõ vai trò, sứ mệnh của thanh niên Việt Nam trong thời đại mới, khi đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ.
++ Bồi dưỡng phẩm chất, bản lĩnh: Yêu nước, trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, ý chí kiên cường, lý tưởng sống cao đẹp, khát vọng vươn lên làm chủ thời đại,...
++ Không ngừng học tập, nâng cao tri thức, rèn luyện các kĩ năng, năng lực cần thiết (năng lực tự học, năng lực công nghệ...), đổi mới tư duy,...
++ Chủ động tham gia các hoạt động cộng đồng và xã hội (các phong trào thanh niên, tình nguyện, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo,...) góp phần lan tỏa lối sống tích cực, truyền cảm hứng cho thế hệ cùng trang lứa.
++ Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa hiện đại để dẫn dắt sự thay đổi mà không đánh mất cốt lõi văn hóa truyền thống.
– Mở rộng, liên hệ:
+ Phê phán một bộ phận thanh niên còn thụ động, thiếu khát vọng vươn lên, dễ bị cuốn theo lối sống hưởng thụ, xa rời lý tưởng cống hiến.
+ Xác định rõ bài học nhận thức và hành động cho bản thân để không chỉ bắt kịp thời đại mà còn góp phần thực hiện sứ mệnh dẫn dắt sự thay đổi của đất nước.
* Kết bài: Khẳng định quan điểm cá nhân đã trình bày về vấn đề nghị luận và đánh giá ý nghĩa của vấn đề.
Lưu ý:
– Thí sinh có thể bày tỏ quan điểm riêng nhưng cần phải đảm bảo chuẩn mực về đạo đức và pháp luật.
– Giám khảo linh hoạt cho điểm đối với những bài viết thí sinh tách ý theo cách viết riêng.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.