Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề thi tham khảo Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Dương SVIP
Đọc đoạn trích sau:
Bà ngoại bị bệnh quên sau khi nhận được tin cậu Út tôi mất. Cái tin này nghe nói bay từ biên giới về vào một buổi sáng rất đẹp trời. Hôm đó cóc nhái kêu rộn mặt ao. Mưa rào vừa xuống rửa sạch đường làng lát gạch đỏ. Nắng lên đứng tha thướt ngoài bờ rặng. Bà ngoại tôi đứng nhìn cái tin trên giấy báo, rồi ngã đánh cạch xuống thềm nhà, cái đầu đập cạch xuống thì đúng hơn. Khi bà ngoại tỉnh dậy, ai hỏi cũng không nhớ gì mấy. May thế, mẹ tôi bảo nhờ vậy mà không phải nhìn thấy bà khóc.
Bà ngoại tôi nhận cái giấy như thế là cái thứ ba. Khi nhận cái thứ hai, báo tin cậu thứ hai của tôi, thì ông ngoại tôi không chịu đựng được, nằm xuống luôn dưới đất. Bà ngoại tôi có lên tận trường sĩ quan bảo cậu Út tôi về làng làm ruộng. Nhưng cậu nhất định thích đeo lon sĩ quan, cậu giải thích với bà vậy nên bà đành chịu.
Mấy chị em tôi hay phải chạy sang với bà ngoại mỗi khi ăn cơm chiều xong, vì đấy là việc phải làm, không ai tị nạnh ai.
Tôi chạy sang hỏi bà: “Bà ngoại ơi bà ăn cơm chưa?”
Bà ngoại tôi lúc lắc mái đầu già quá là già, cười cười: “Cháu ra xem ngoài sân có phải gió đã về không?”
Tôi chạy ra sân nghe ngóng. Tôi nghe thấy tiếng gì ù ù: “Bà ơi, đúng rồi, gió đã về.”
Bà ngoại tôi cười, mặt nhăn quá là nhăn, hàm răng sún sún chỉ còn vài cái như mấy hạt ngô lép.
Trong giấc mơ, tôi thấy cả ba cậu của tôi đang cùng ùa vào nhà. Cậu Nhất tôi hiền lành nhất nhà. Cậu Hai thì nghiêm nghị lạnh lạnh. Còn cậu Út lém lỉnh hơi lỏi một tí. Cả ba cậu đều cùng bẹo má tôi. Cậu Nhất hiền lành nên bẹo mà êm êm. Cậu Hai bẹo má tôi mà như đang nặn cục bột. Cậu Út cười ha ha, để cậu bẹo thật kêu nhá. Ái cha, giờ thì tôi biết vì sao bà ngoại nhất định không chịu đi sang nhà tôi ở.
Ngoài sân, gió thổi qua hiên nhà. Bà ngoại tôi lại hỏi: “Cháu ơi, gió có phải đã về không?”
Tôi cựa mình, ngáp ngáp rồi trả lời bà: “Bà ơi, đúng rồi. Gió đã về rồi.”
Ngày nào tôi cũng chuẩn bị nhìn cho kỹ, nghe cho tinh. Tôi chỉ sợ gió về mà không biết để báo cho bà. Bà ngồi chải tóc, những sợi tóc mềm mại lọt qua kẽ tay già ơi là già, rơi rơi theo từng cơn gió.
Tôi lên bảy tuổi nên phải đi học. Ở lớp tôi tập tô và nắn nót viết chữ BÀ. Tôi có bà nội nữa, nhưng bà nội tôi đã đi rất xa, từ khi chưa có tôi trên đời. Nên khi viết chữ bà, tim tôi run lên hai tiếng bà ngoại. Tôi ngồi trong lớp tập viết, bên tai cứ nghe tiếng gió thổi luôn.
Rồi tôi phân biệt được các loại gió.
Khi gió dịu dàng bay về mơn man là lúc các cậu tôi ngủ, đầu gối lên nhau, chân gác lên nhau, theo kiểu gì thì tôi không nhìn ra rõ lắm. Khi gió thổi vù vù là y rằng các cậu đang đùa nghịch giống như lũ trẻ con lớp một lớp hai chúng tôi. Khi gió gừ gừ cắn cảu là lúc các cậu tôi sôi bụng đói. Thật tệ, lúc tôi đói thường cắn răng mà chịu, hoặc chạy ra chum múc nước mưa uống. Nhưng các cậu tôi không uống nước mưa chống đói. Có thể nước mưa không còn thích hợp với các cậu nữa.
(Lược một đoạn: Mẹ tôi về thuyết phục bà ngoại đưa mẹ con cô Hồng về. Đứa con của cô là con của cậu Út. Nay cô muốn cho con trai về nhận bà nội.)
Bà ngoại tôi thì cứ thầm thì: “Cảm ơn con đã không thành gió, đã sống trên đời này với mẹ...”
Mẹ tôi lảng đi, nì nèo: “Thế mẹ đừng quên uống thuốc nữa đấy nhé. Có em Hồng về nhà ở, mẹ đừng quên quên nhớ nhớ nữa đấy...”
“Ừ, mẹ sẽ nhớ.”
Mẹ tôi đi rồi, bà ngoại tôi bảo:
“Bà nói cho cháu biết một bí mật nhé. Khi cậu Út cháu đi, cậu có chạy về bảo với bà: mẹ không được khóc thì con sẽ về thăm mẹ luôn. Khi nào ngoài ngõ có cơn gió về là con với các anh về thăm mẹ đấy. Thực ra bà không điên đâu. Bà chỉ không muốn ông ngoại cháu với các cậu nhìn thấy bà khóc.”
Ôi, bà ngoại điên của tôi. [...]
(Trích: Gió thổi – Võ Thị Xuân Hà – Truyện ngắn chọn lọc báo Nhân dân – Nhà xuất bản Văn học 2019; Tr.77-81)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 (0,5 điểm): Xác định nhân vật chính của truyện.
Câu 2 (0,5 điểm): Chỉ ra lý do bà ngoại bị bệnh quên được đề cập đến trong truyện.
Câu 3 (1,0 điểm): Nêu ý nghĩa của những lời thoại mà bà ngoại nói với nhân vật tôi: “... có phải gió đã về không?”, “... gió có phải đã về không?”.
Câu 4 (1,0 điểm): Trình bày hiệu quả của việc sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa trong câu sau: “Khi gió dịu dàng bay về mơn man là lúc các cậu tôi ngủ, đầu gối lên nhau, chân gác lên nhau, theo kiểu gì thì tôi không nhìn ra rõ lắm.”
Câu 5 (1,0 điểm): Từ nội dung của truyện, anh/chị có suy nghĩ gì về những con người từng trải qua mất mát vì chiến tranh? (trình bày khoảng 5 – 7 dòng)
Hướng dẫn giải:
Câu 1. Nhân vật chính của truyện là: Bà ngoại.
Câu 2. Bà ngoại bị bệnh quên vì lý do:
– Khi bà nhận được tin cậu Út mất.
– Bà ngã đánh cạch xuống thềm nhà, cái đầu đập cạch xuống.
Câu 3. Những lời thoại của bà ngoại có ý nghĩa:
– Bộc lộ sự mong ngóng của bà ngoại với những ngọn gió, chính là sự mong ngóng những đứa con đã mất trở về.
– Thể hiện tình yêu thương con của bà ngoại; với bà, những người con vẫn luôn hiện diện trên cuộc đời và luôn trở về với bà.
Câu 4.
– Biện pháp nhân hóa: “gió dịu dàng bay về mơn man”.
– Tác dụng:
+ Gợi hình ảnh những cơn gió nhẹ nhàng, lướt nhẹ mang linh hồn của những người cậu đã hi sinh.
+ Bộc lộ sự nhớ thương, nỗi xúc động, cảm giác gần gũi thân thuộc.
+ Tạo câu văn giàu hình ảnh, khơi gợi sự liên tưởng, tưởng tượng.
Câu 5.
Từ nội dung của truyện, HS trình bày suy nghĩ về những con người từng trải qua mất mát vì chiến tranh. Có thể là một vài gợi ý sau:
– Họ là những người lính chiến đấu nơi chiến trường, là những người thân nơi quê nhà.
– Những con người từng trải qua mất mát vì chiến tranh chịu đựng nỗi đau một cách kiên cường, mạnh mẽ.
– Những con người ấy lặng thầm hi sinh để góp phần bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước.
– Họ là những con người cao đẹp, được các thế hệ sau biết ơn, tri ân.
Câu 1 (2,0 điểm):
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) cảm nhận về đức hi sinh của bà ngoại trong văn bản ở phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm):
Giới hạn – chấp nhận hay phá vỡ?
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ quan điểm về vấn đề trên.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Đảm bảo yêu cầu về hình thức của kiểu đoạn nghị luận văn học và dung lượng đoạn văn (khoảng 200 chữ); Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận về đức hi sinh của bà ngoại trong văn bản ở phần Đọc hiểu.
c. Viết được đoạn văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo hệ thống ý phù hợp. Có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau miễn là hợp lí và thuyết phục. Sau đây là gợi ý:
* Mở đoạn: Giới thiệu được truyện ngắn, tác giả, vấn đề nghị luận.
* Thân đoạn: Đức hi sinh của bà ngoại (phân tích một đặc điểm của nhân vật qua sự việc, các chi tiết thể hiện hành động, suy nghĩ, cảm xúc,...).
+ Bà phải chịu nỗi đau lớn lao, mất ba người con trai: “Bà ngoại bị bệnh quên sau khi nhận được tin cậu Út tôi mất.”; “Bà ngoại tôi nhận cái giấy như thế là cái thứ ba.”.
=> Nỗi đau lớn từng khiến ông ngoại “không chịu đựng được, nằm xuống luôn dưới đất.”.
=> Nỗi đau khiến bà mất đi cả ý thức tỉnh táo.
+ Bà ngậm ngùi mang nỗi đau, sự lo lắng trong lòng, chấp nhận cho con thực hiện lý tưởng cao đẹp: Bà muốn cậu Út tôi về làng làm ruộng, “nhưng cậu nhất định thích đeo lon sĩ quan, cậu giải thích với bà vậy nên bà đành chịu.”.
+ Bà không sang nhà nhân vật “tôi” ở để con cháu chăm sóc, mà ở lại một mình để chờ đợi những người con đã mất trở về theo những cơn gió. => Bà vẫn là nơi trở về, là bến đỗ cho những người con đi xa.
+ Bí mật của bà ngoại: “…bà không điên đâu. Bà chỉ không muốn ông ngoại cháu với các cậu nhìn thấy bà khóc.”. Bà đã nén nỗi đau thương trong lòng để chồng con được yên lòng.
=> Bà là biểu tượng của sự mạnh mẽ, nghị lực.
=> Vì các con, vì quê hương đất nước, bà đã tự nguyện nhận về mình những thiệt thòi mất mát lớn. Đức hi sinh của bà là phẩm chất cao quý, xuất phát từ lòng vị tha, tình yêu thương với các con.
* Kết đoạn: Đánh giá vấn đề nghị luận, rút ra thông điệp, bày tỏ cảm xúc về nhân vật.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của bài văn:
Đảm bảo yêu cầu về hình thức của kiểu bài nghị luận xã hội và dung lượng bài văn (khoảng 600 chữ).
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Thể hiện quan điểm và bàn luận về vấn đề: giới hạn – chấp nhận hay phá vỡ?
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. HS có thể trình bày bằng nhiều cách khác nhau miễn là hợp lí và thuyết phục; cần xem xét trừ điểm các lỗi diễn đạt. Tham khảo cách triển khai một số nội dung cụ thể sau:
* Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
* Thân bài:
– Giải thích vấn đề:
+ “Giới hạn”: Phạm vi, mức độ nhất định, không thể hoặc không được phép vượt qua.
+ “Chấp nhận”: Sự đồng tình, bằng lòng.
+ “Phá vỡ”: Sự vượt thoát, bứt phá.
+ Vấn đề cần nghị luận: Thái độ, cách ứng xử của con người trước những giới hạn của bản thân và cuộc sống. Giới hạn của bản thân nằm trong chủ quan như thể chất, tri thức, năng khiếu, tâm lí, cảm xúc, tài chính,... Giới hạn của cuộc sống là những yếu tố khách quan như: pháp luật, đạo đức, hoàn cảnh,...
+ HS thể hiện quan điểm của mình: Nên chấp nhận hoặc phá vỡ, hoặc có cách ứng xử phù hợp với từng hoàn cảnh.
– Bàn luận: Tùy vào quan điểm của mình, HS có thể đưa ra một số lý lẽ theo gợi ý sau:
+ Có những giới hạn nên được phá vỡ (định kiến, khả năng, khát vọng, hoàn cảnh,...).
++ Đó là những phạm vi đóng khung con người trong định mức chật hẹp, không phát huy được tiềm lực.
++ Tạo nên những giá trị mới, biến giới hạn thành động lực, thước đo của ý chí, tầm vóc con người.
++ Giúp khẳng định giá trị, sức mạnh bản thân, phát huy được khả năng tiềm ẩn của các bạn trẻ.
++ Là cơ sở của những phẩm chất: Dũng cảm, sáng tạo, tiên phong,…
++ Có những giới hạn nên chấp nhận (pháp lý, đạo lý,...). Đó là ngưỡng cuối cùng giữ cho mỗi cá nhân không bị lệch chuẩn, không nghiêng về cái xấu, cái ác, sự tàn bạo.
++ Chấp nhận để có được sự an toàn, hòa hợp và hạnh phúc.
+ Người trẻ vốn năng động, sáng tạo, chủ động nhưng vẫn còn non nớt, thiếu kinh nghiệm nên cần có kiến thức, bản lĩnh để lựa chọn cách ứng xử phù hợp.
– Mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác:
+ Nếu chỉ đóng khung bản thân trong những giới hạn: Trở nên bảo thủ, sự lạc hậu, thiếu dũng khí,...
+ Nếu phá vỡ giới hạn đạo lý, pháp luật: Con người rơi vào bi kịch hoặc đánh mất những điều quý giá như tâm hồn, nhân cách, thậm chí cả sự sống.
* Kết bài: Khẳng định quan điểm cá nhân đã trình bày và rút ra bài học cho bản thân.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.