Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo của Sở Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Phúc SVIP
(4,0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:
ĐỜI KHỔ
(Lược phần đầu: Năm 1961, vợ chồng nhân vật tôi được quân đội cấp cho một căn nhà nhỏ ở khu tập thể Phúc Xá, vùng đất nghèo ven sông Hồng. Dù điều kiện sống ban đầu còn thiếu thốn, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc với mái ấm đầu tiên của riêng mình. Những kỉ niệm giản dị như bữa cơm đầu tiên, tình làng nghĩa xóm bắt đầu hình thành đã trở thành kí ức đẹp đẽ không thể quên với nhân vật tôi. Trong dòng kí ức, nhân vật tôi nhớ đến chị Vách – một người hàng xóm tại khu tập thể.)
Chị Vách hơn tôi một con giáp, răng đen và vấn khăn. Chồng chị là thiếu tá ở một học viện chính trị, hơn tôi khoảng mươi mười lăm tuổi. Cấp thiếu tá ngày ấy là to lắm, là mơ ước gần như viển vông của đám thượng úy lau nhau. Tên ông thiếu tá là gì tôi không rõ, mặt ông tôi cũng quên, chỉ nhớ mang máng một người đàn ông có bộ dạng rất đứng đắn, có thể rất tốt bụng, nhưng không làm một việc gì, nói một lời nào để dãy xóm được nhớ. Mỗi lần gặp tôi ở đường, một năm khoảng đôi ba lần, ông đều chào trước thân thiện và nhạt nhẽo: “Đồng chí khỏe không? Tốt chứ?”.
Với gia đình ấy vợ chồng tôi chỉ biết có chị Vách, ông thiếu tá chồng chị là ông Vách, các con chị một lũ lôi thôi, lốc thốc là con bà Vách. Chị Vách rất hợp chuyện với vợ chồng tôi, chị là người dưới quê mới theo chồng lên sống ở tỉnh, vợ tôi cũng thế. Chị là một cán bộ xã vùng địch hậu thời đánh Pháp, vợ tôi là du kích, rồi là dân công gùi gạo theo bộ đội suốt mấy chiến dịch. Hai chị em mỗi lần được ngồi với nhau là dứt không ra. Chuyện đàn bà không đầu không cuối nhưng chị Vách đã lên tiếng, mình lại chót dại để tai nghe là cứ phải nghe đến cùng. Hết cả đọc, hết cả viết. Vì nó vui lắm, buồn cười lắm, cười đến đau ruột, đến não lòng.
Tôi nói:
– Có một bà vợ vui tính như chị chắc ông ấy được cười cả ngày.
Chị Vách nói:
– Quân tử ẩn hình, tiểu nhân lộ tướng. Ông ấy vẫn phê bình tôi nói năng vô chính trị, không được chín chắn như các bà cán bộ ở tỉnh. Người ta có trình độ cao lỡ lấy phải vợ dại cũng là khổ tâm lắm. Thời trước thì họ đuổi mình ra đường rồi. Giàu vì bạn, sang vì vợ, có một bà vợ như tôi ông chồng cũng hoá hèn, chị nói thế. Nên không bao giờ chị dám đi cùng chồng ra ngoài, đến thăm ai chồng đạp xe tới trước, vợ đi bộ tới sau, không xem hát, không xem chiếu bóng, chưa bao giờ tôi thấy vợ chồng họ đi sóng đôi cả. Mà chị đâu có xấu, là một phụ nữ xinh đẹp của một thời, gương mặt tươi tắn, cái miệng với hàm răng đen đều đặn khi nói khi cười duyên dáng lạ lùng. [...]
Chị Vách không biết chữ, đã là cán bộ phụ nữ xã mà không biết chữ, chỉ vạch được một chữ V thay chữ kí thôi. Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế. Chị đẻ hai đứa con gái đầu, ông chồng vắng nhà vì phải đi đánh giặc. Đẻ hai đứa con trai sau, ông chồng cũng vắng mặt nốt vì phải đi công tác. Chị sanh không được thuận vì đã lớn tuổi, lúc sát nhau, lúc băng huyết, chỉ có bạn bè tới thăm hỏi giúp đỡ, nằm dăm bảy ngày lại bò dậy ôm con ra viện, vài ngày sau đã giặt giũ cơm nước, da mặt vàng ủng nhưng nụ cười vẫn tươi tắn. Nghe chị nói nhà chị có sáu người nhưng hai mâm. Chồng một mâm, năm mẹ con một mâm riêng. Tiền nong chia đôi, tiêu cho chồng một nửa, năm mẹ con một nửa. Chị bảo, anh ấy phải làm việc trí óc nhiều, lại cao tuổi, lại lắm thứ bệnh không bồi dưỡng là nguy ngay. Còn năm mẹ con chị sao cũng được, nông dân vốn nuôi dễ. Tôi nói: “Bà cứ bày vẽ, ông ấy không là nông dân thì là cái gì, là trí thức hả?”. Chị cười rất tươi: “Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi.”. Tôi hỏi: “Ông ấy cũng được đi học à?”. Chị có vẻ giận: “Con địa chủ không được đi học thì ai được học. May mà ông bố đã phá tan hết cơ nghiệp, nếu không cũng bị đấu hồi cải cách rồi.”. [...]
Chị Vách không biết chữ nên chị làm cấp dưỡng một bếp ăn tập thể của quân đội. Chị đi làm rất sớm và về rất muộn. Khi đi gánh đôi thùng không, khi về một bên là nước vo gạo, một bên là cơm thừa của bếp ăn tập thể. Cơm nước lợn gà, hầu bố và trông các em trong một ngày chị đều phó mặc cho đứa con gái đầu. Một người vác cái cày bảy người vác muỗng như chị thường nói. Năm tôi về ở Phúc Xá thì đứa con gái lớn của chị đã mười bốn, mười lăm tuổi. Con bé không được xinh, da đen, chân tay lòng khòng, cả ngày không nghe nó nói một câu, cứ lầm lì làm, hết làm thì lầm lì đứng một góc giương mắt nhìn xung quanh. Giống tính ông bố như hệt, nhưng nó không được học như bố nó, biết đọc biết viết là thôi vì đông em quá. Tôi hỏi chị Vách: “Tại sao chị không cho cháu đi học?”.
Chị nói:
– Con gái cần gì học nhiều.
– Ông ấy không bắt nó đi học à?
Lại thêm một dịp để chị khoe chồng:
– Về đến nhà là vùi đầu vào đọc sách đọc báo, không hỏi đến vợ con được một câu.
Tôi cười to: “Ông ấy cũng sướng nhỉ, sướng nhất khu đấy.”. Chị cũng cười: “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú.”. Nói đến thế là hết.
(Lược phần cuối: Sau nhiều năm rời khu tập thể, nhân vật tôi trở lại thăm nơi này và chứng kiến cuộc sống của chị Vách càng khốn khó hơn: ông chồng mất, hai đứa con gái quá lứa lỡ thì không lấy chồng, một đứa con trai ngẩn ngơ điên dại. Lương hưu thấp nên dù đã bảy mươi tuổi chị Vách vẫn phải vất vả mưu sinh, làm xôi bán để có thêm tiền lo cho các con. Chị tự nhận vì mình ngu đần, vụng dại nên con cái mới vậy, nếu chồng chị còn sống thì chúng nó đâu đến nỗi. Suy nghĩ của chị khiến nhân vật tôi cổ tắc nghẹn lại, muốn bật khóc.)
(Nguyễn Khải, Đời khổ, in trong Tuyển tập Nguyễn Khải, NXB Văn hoá thông tin, 2014, tr. 190 – 192)
* Chú thích: Sát nhau (hay sót rau): chỉ tình trạng sót nhau thai sau khi sinh con – một biến chứng sản khoa nguy hiểm.
Câu 1. Xác định ngôi kể và điểm nhìn của truyện ngắn trên.
Câu 2. Chỉ ra những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của chị Vách.
Câu 3. Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ liệt kê trong các câu văn sau: “Một mình chị suốt những năm đánh Pháp vừa nuôi hai con, vừa nuôi mẹ chồng, mẹ ốm một mình chị chăm sóc, lúc chết một mình chị chôn cất ma chay. Mà vẫn không dám coi là có công, làm dâu, làm vợ, làm mẹ ắt phải thế, từ thời xửa thời xưa đã vẫn là thế.”.
Câu 4. Nêu vai trò của chi tiết “Chị cười rất tươi: “Ông ấy học cao lắm chú ạ, một rương vàng không bằng một nang chữ. Một đời chỉ biết đánh giặc với đọc sách thôi”.”.
Câu 5. Từ câu nói của chị Vách “Người khôn nhọc lo, người dại ăn no lại nằm. Tôi mới là người sướng chứ chú.”, anh/ chị suy nghĩ gì về cách để con người vượt qua khi phải đối diện với những nhọc nhằn, vất vả trong cuộc sống?
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
– Ngôi kể: thứ nhất.
– Điểm nhìn: hạn tri.
Câu 2.
Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của chị Vách: một phụ nữ xinh đẹp của một thời, gương mặt tươi tắn, cái miệng với hàm răng đen đều đặn khi nói khi cười duyên dáng lạ lùng,...
Câu 3.
– Biện pháp tu từ liệt kê: nuôi hai con, nuôi mẹ chồng, mẹ ốm... chăm sóc, chôn cất ma chay..., làm dâu, làm vợ, làm mẹ.
– Hiệu quả nghệ thuật:
+ Làm tăng tính cụ thể, sinh động, tăng hiệu quả diễn đạt và tính biểu cảm cho lời văn.
+ Nhấn mạnh sự vất vả, thiệt thòi trong cuộc sống gia đình của chị Vách đồng thời khẳng định sự đảm đang, tháo vát, tần tảo, hi sinh thầm lặng của chị.
+ Giúp nhà văn thể hiện cái nhìn đầy cảm thông với nỗi vất vả của người phụ nữ và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Câu 4.
– Nội dung chi tiết: chị Vách đánh giá cao về trí tuệ và sự cống hiến cho đất nước của chồng mình cho dù chồng chị không dành thời gian cho gia đình khiến chị chịu thiệt thòi.
– Vai trò của chi tiết:
+ Thúc đẩy cốt truyện phát triển; nhấn mạnh niềm tự hào, ngưỡng mộ người chồng của nhân vật chị Vách.
+ Thể hiện sáng tạo của nhà văn trong việc khám phá đời sống: lời nói của chị Vách cũng là tiếng lòng của cả một thế hệ trân trọng tri thức, lí tưởng.
+ Thể hiện chiều sâu tư tưởng của tác phẩm: đặt ra vấn đề về thân phận của người phụ nữ trong xã hội đương thời – nơi mà danh nghĩa lớn lao đôi khi che lấp nỗi khổ cá nhân.
Câu 5.
– Câu nói của chị Vách dí dỏm nhưng ẩn chứa một triết lí sống sâu sắc: người hiểu biết hay lo nghĩ nên vất vả, người ít học nông cạn, không lo nghĩ nhiều nên sung sướng. Suy nghĩ vô tư, tích cực đó đã giúp chị Vách đối diện với những nhọc nhằn của cuộc đời một cách nhẹ nhàng hơn.
– Suy nghĩ về cách để con người vượt qua những nhọc nhằn và vất vả trong cuộc sống:
+ Để vượt qua nhọc nhằn, con người không chỉ cần nghị lực, sự kiên cường mà còn cần một tâm thế nhẹ nhàng, một tinh thần lạc quan và giữ cho tâm trí mình được an yên.
+ Mỗi người cần chủ động vươn lên, lao động và phấn đấu, không sống buông xuôi, phó mặc số phận.
+ Biết cân bằng giữa nỗ lực và nghỉ ngơi, lí trí và cảm xúc, lo toan và tận hưởng,...
Câu 1 (2,0 điểm)
Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá nhan đề “Đời khổ” của văn bản trong phần Đọc hiểu.
Câu 2 (4,0 điểm)
Trong chương trình Thủ tướng Chính phủ đối thoại với thanh niên Việt Nam năm 2025 (nhân dịp kỉ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 26/03/1931 – 26/03/2025), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chia sẻ lời khuyên quý giá: “Tuổi trẻ hãy nỗ lực vượt qua giới hạn của chính mình để không ngừng cống hiến, đóng góp cho quê hương, đất nước.”. Thế nhưng trong xã hội hiện nay, bên cạnh những bạn trẻ biết vượt qua giới hạn của chính mình để tạo ra các giá trị bền vững vẫn còn một số bạn trẻ phô trương bản thân để thu hút sự chú ý nhất thời.
Từ góc nhìn của người trẻ, anh/chị hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề trên.
Hướng dẫn giải:
Câu 1.
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn: bảo đảm yêu cầu về hình thức và dung lượng (khoảng 200 chữ) của đoạn văn; có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: phân tích, đánh giá nhan đề “Đời khổ”.
c. Viết đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở bảo đảm nội dung. Sau đây là gợi ý:
– Nhan đề “Đời khổ” ngắn gọn nhưng giàu sức gợi, tạo ấn tượng và gây chú ý với bạn đọc, hé mở nội dung chủ đề, báo trước số phận bất hạnh của nhân vật trung tâm.
– Nhan đề “Đời khổ” giàu tính nghệ thuật: vừa là tiếng than, tiếng thở dài xót xa vừa là lời kết luận đầy nghiệt ngã khái quát trọn vẹn thân phận con người khổ cả một đời.
– Nhan đề “Đời khổ” rất phù hợp, bao trùm nội dung tác phẩm (xoay quanh cuộc đời, số phận của nhân vật chị Vách – người phụ nữ một đời chịu nhiều vất vả, thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần).
– Nhan đề “Đời khổ” giản dị mà sâu sắc, giúp nhà văn tô đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, khơi gợi suy ngẫm về thân phận con người đồng thời nhắn gửi quan điểm nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc, về bình đẳng của người phụ nữ trong xã hội.
d. Diễn đạt: đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết câu trong đoạn văn.
đ. Sáng tạo: thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2.
a. Xác định được yêu cầu của kiểu bài và dung lượng của bài văn: nghị luận xã hội, khoảng 600 chữ.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: tuổi trẻ với sự phát triển bản thân, tạo giá trị cống hiến cho đất nước.
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp với bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Thí sinh có thể triển khai theo hướng sau:
c1. Mở bài: giới thiệu vấn đề nghị luận.
c2. Thân bài:
* Giải thích:
– Vượt qua giới hạn của chính mình: quá trình con người học hỏi, rèn luyện, phát triển năng lực và bản lĩnh để vươn tới mục tiêu cao hơn.
– Cống hiến: sự tự nguyện, tự giác đem sức lực, tài năng, trí tuệ của mình đóng góp cho lợi ích chung.
=> Lời khuyên của Thủ tướng khơi dậy tinh thần trách nhiệm, lí tưởng sống cao đẹp cho tuổi trẻ: không ngừng nỗ lực, rèn luyện, học tập để vượt qua giới hạn bản thân, phát triển toàn diện, có ý thức cống hiến cho cộng đồng, đất nước.
– Phô trương để gây chú ý nhất thời: là hành vi thể hiện quá mức, khoe khoang vẻ ngoài, chạy theo sự nổi tiếng, hào nhoáng, thiếu chiều sâu và định hướng nên dễ dẫn tới sự lệch chuẩn so với các giá trị tốt đẹp.
=> Tóm lại, tuổi trẻ cần tỉnh táo nhận thức và lựa chọn đúng đắn cách thể hiện bản thân: khẳng định giá trị của chính mình, đóng góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước, không nên phô trương bản thân để thu hút sự chú ý nhất thời.
* Bàn luận:
– Nhiều bạn trẻ biết vượt qua giới hạn của chính mình để tạo ra các giá trị bền vững:
+ Tuổi trẻ năng động, học hỏi, sáng tạo, khởi nghiệp, tham gia hoạt động xã hội, tạo ra các giá trị tích cực. Nhiều bạn trẻ dám dấn thân, hành động để vượt ra ngoài những giới hạn chật hẹp của chính mình.
+ Tuổi trẻ tự khẳng định bằng cách không ngừng tích lũy kiến thức, phát triển trí tuệ, khơi dậy tiềm năng, từ đó trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình, đạt được thành công và cống hiến giá trị cho gia đình, xã hội.
– Ngược lại, một bộ phận bạn trẻ lại chọn cách phô trương để được chú ý nhất thời:
+ Nguyên nhân: thiếu tự tin vào giá trị thật; chịu ảnh hưởng từ mạng xã hội và xu hướng “sống ảo”; thích nổi bật trong môi trường cạnh tranh; thiếu định hướng sống rõ ràng, theo trào lưu.
+ Hậu quả: lối sống phô trương đánh mất giá trị thực, ảo tưởng, có thể dẫn tới sự lệch lạc nhân cách; áp lực phải giữ hình ảnh “hoàn hảo”, dẫn đến mệt mỏi, khủng hoảng tinh thần, dễ bị tổn thương, mất cơ hội phát triển thực sự và không góp ích cho xã hội.
– Trước thực trạng đó, tuổi trẻ cần tỉnh táo lựa chọn cách thể hiện bản thân sao cho đúng đắn, phù hợp:
+ Nhận thức đúng giá trị bản thân, tin vào năng lực chính mình, không đánh đồng giá trị với vẻ ngoài hay lời khen nhất thời.
+ Giữ vững lập trường sống, không bị cuốn theo xu hướng hoặc áp lực xã hội. Sống chân thật, giản dị, dám là chính mình, không cần gồng mình để gây ấn tượng.
+ Tập trung phát triển năng lực thật sự, trau dồi kiến thức, kĩ năng để có thành tựu bền vững.
+ Không ngừng cống hiến, tạo ra giá trị lâu dài, bền vững đóng góp cho quê hương, đất nước bằng cách: lắng nghe, học hỏi, hành động, sống khiêm tốn, trưởng thành, nâng cao giá trị bản thân...
* Mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác.
c3. Kết bài: khái quát vấn đề nghị luận.
d. Diễn đạt: đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
đ. Sáng tạo: thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.