Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Đề tham khảo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Ninh SVIP
Đọc đoạn trích sau:
CON THÚ LỚN NHẤT
Nguyễn Huy Thiệp
Ngày ấy, ở Hua Tát có một gia đình ngụ cư không biết ở mường nào chuyển đến. Họ dựng nhà ở ngoài rìa bản, chỗ gần rừng ma. Nhà ấy chỉ có hai vợ chồng đều luống tuổi. Họ đi đâu cũng có nhau. Người vợ lúc nào cũng âm thầm, im lặng, suốt ngày không hề thấy nói một tiếng. Người chồng cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim. Đôi mắt của lão đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.
Người chồng là tay thợ săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít khi có chim chóc hoặc thú rừng nào thoát chết. Đằng sau nhà lão, lông chim, xương thú chất đầy thành đống. Những đống lông chim xơ xác đen xỉn như màu mực tàu, còn những đống xương thú màu đá vôi thì lốm đốm những vệt nước tủy vàng khè, hôi hám. Những đống ấy to như những cái mả. Lão thợ săn như là hiện thân thần Chết của rừng. Chim chóc và thú rừng sợ hãi lão. Cánh thợ săn ở Hua Tát vừa ghen tị, vừa bất bình với lão. Lão không tha bất cứ con vật nào trong tầm súng của mình. Có người kể rằng đã tận mắt nhìn thấy lão bắn chết một con công đang múa. Một con công đang múa nhé: cái đầu cong như lá lúa, cái đuôi xòe nửa vòng cung với đủ màu sắc, tia nắng mặt trời hắt ánh lửa lấp lánh như vàng, đôi chân kheo khéo lượn vòng. Chỉ có tình yêu thì mới lượn vòng tinh tế như thế. Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhòe máu. Vợ lão già đến, khô đét, đen ngòm, âm thầm nhặt con công cho vào cái lếp sau lưng.
Tuy vậy, suốt đời lão già chỉ săn được những con chim, con thú bình thường. Lão già chưa bao giờ săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt. Khẩu súng lão chỉ bắn được những con vật nhỏ ngu ngốc. Đấy chính là điều lão già khổ tâm, dằn vặt... Cả bản Hua Tát xa lánh vợ chồng lão, không ai nói chuyện, chơi bời với gia đình lão. Nhìn thấy vợ chồng lão, người ta tránh ngoắt đi. Cứ thế, lão thợ săn sống cô đơn bên người vợ âm thầm.
Cuối năm ấy, ở Hua Tát động rừng, cây cối xơ xác, chim chóc trốn biệt, không có dấu chân một con thú nào trong rừng. Chưa bao giờ người Hua Tát sống vất vả thế. Người ta đồn là Then bắt đầu trừng phạt. Lão thợ săn ngụ cư kiếm ăn cũng rất khó khăn. Vợ chồng lão lang thang khắp rừng. Lần đầu tiên trong đời lão già gặp phải cảnh này. Ba tuần trăng, khẩu súng của lão không hề được nổ. Lão già dậy từ gà gáy canh ba vác súng đi đến tối mịt. Người vợ già của lão không còn đủ sức đi theo chồng nữa. Mụ ở nhà nhóm lửa chờ đợi. Ngọn lửa mụ nhóm như có ma ám, không đỏ mà lại xanh lét như mắt chó sói.
Lần ấy lão già đi vắng cả tuần liền. Người lão mệt lả. Đầu gối lão chùn xuống, các bắp thịt nhão ra tưởng chừng có thể dùng tay bấu được như bấu những con vắt nhẽo bết máu. Lão đã lết khắp nơi mà không gặp gì. Đến một con chim sâu, thậm chí một con bướm lão cũng không thấy. Lão hoang mang sợ hãi. Then đã trừng phạt thế gian như lời người ta đồn đại hay chăng?
Cuối cùng, mệt lả, lão già kiệt sức phải lết về nhà. Đến con suối đầu bản, lão dừng lại nhìn về nhà mình. Nhà lão có ánh lửa, cái ánh lửa xanh lét, chắc là vợ lão vẫn thức đợi chồng. Lão nhắm nghiền đôi mắt đục và sâu hoắm lại. Ngẫm nghĩ một lát, lão lộn lại rừng. Mũi lão đã đánh hơi thấy mùi thú… Lão gặp may thật. Lão đã nhìn thấy nó. Cái con công ấy đang múa. Kìa, đôi chân con công di chuyển nhẹ nhàng về phía bên phải, cái đuôi xòe thành đường tròn lại dịch về phía bên trái. Cái ánh xanh gay gắt trên túm lông đầu của nó rực rỡ làm sao! Lão già giương súng lên: “đùng”! Phát súng nổ. Lão nghe thấy tiếng rú thất thanh. Lão chạy lại con thú bị bắn ngã. Đấy là vợ lão. Mụ đi ra rừng đợi lão, tay mụ còn cầm bộ lông chim công.
Lão thợ săn nằm sấp xuống, úp mặt vào vũng máu trên lớp lá mục nồng nồng, ngái và hôi như mùi chuột. Miệng lão hộc lên như tiếng lợn lòi. Lão nằm thế rất lâu. Mây đen sà xuống thấp, khu rừng tối sẫm, nóng hâm hấp như da người sốt. Gần sáng, lão già bỗng đứng phắt dậy nhanh như con vượn. Lão nảy ý định lấy xác vợ lão làm mồi để săn con thú, con thú lớn nhất đời mình. Lão nằm trong bụi cây, gần cái xác thối rữa của vợ lão một sải tay, đạn lên nòng, khắc khoải chờ đợi. Nhưng Then đã trừng phạt lão. Không có con thú nào đến với lão, chỉ có cái chết đến với lão.
Ba ngày sau, người ta lôi cái xác còng queo của lão ra khỏi bụi cây. Một vết đạn xuyên qua trán lão.
Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
(Trích Những ngọn gió Hua Tát, NXB Hội Nhà văn, 2024, tr. 258 – 262)
* Chú thích:
Cái lếp: giỏ đeo.
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1 (0,5 điểm): Chỉ ra dấu hiệu để xác định ngôi kể của văn bản.
Câu 2 (0,5 điểm): Liệt kê các từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật lão thợ săn trong văn bản.
Câu 3 (1,0 điểm): Phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn: Con công đang múa, thế mà – “đùng” – khẩu súng trong tay lão già giật lên, phụt ra một lưỡi lửa đỏ. Con công ngã gục, cái cánh có ánh cầu vồng ngũ sắc nhoè máu.
Câu 4 (1,0 điểm): Nhận xét về ước mơ lớn nhất đời mình của nhân vật lão thợ săn.
Câu 5 (1,0 điểm): Từ chủ đề của câu chuyện, anh/ chị hãy chia sẻ góc nhìn của mình về lối sống bản năng của con người (trình bày khoảng 5 – 7 dòng).
Hướng dẫn giải:
Câu 1 (0,5 điểm): Người kể chuyện không xuất hiện trực tiếp – là dấu hiệu để xác định ngôi kể thứ ba của văn bản.
Câu 2 (0,5 điểm):
Các từ ngữ, hình ảnh miêu tả nhân vật lão thợ săn trong văn bản:
– Cao lớn, gầy guộc, mặt sắt lại, mũi như mỏ chim.
– Đôi mắt đục và sâu hoắm, phảng phất những tia lân tinh lạnh lẽo.
Câu 3 (1,0 điểm):
– Các từ ngữ biểu hiện của biện pháp tu từ ẩn dụ trong câu văn: Con công múa, cái cánh ánh cầu vồng ngũ sắc; khẩu súng (hình ảnh con công: tượng trưng cho cái đẹp; khẩu súng: biểu tượng của sự tàn ác, nhẫn tâm).
– Hiệu quả nghệ thuật:
+ Làm tăng tính gợi hình, gợi cảm, cô đọng, hàm súc, đa nghĩa cho lời văn.
+ Thể hiện bản chất tàn bạo của lão thợ săn. Cái đẹp, vũ điệu của con công không thể cảm hoá được lão thợ săn. Họng súng của hắn như mù loà tàn nhẫn giương lên bắn chết con công.
+ Nỗi day dứt của nhà văn trước bản chất bạo tàn của con người.
Câu 4 (1,0 điểm):
– Ước mơ của lão thợ săn là săn được con thú lớn nhất đời mình.
– Nhận xét:
+ Ước mơ của lão thợ săn gắn liền với tham vọng. Hành trình thực hiện ước mơ chính là hành trình hoá “thú” của một con người. Bản năng thú tính trỗi dậy, lớn dần, lấn át phần “người” và lão trở thành con mãnh thú đáng sợ.
+ Tư tưởng của nhà văn: Cảnh tỉnh con người về hậu quả của lối sống bản năng, tàn nhẫn, vô nhân tính.
Câu 5 (1,0 điểm):
– Chủ đề của câu chuyện: Bi kịch của lão thợ săn khi chìm trong tham vọng của mình. Truyện có ý nghĩa thức tỉnh mỗi con người về hậu quả của lối sống bản năng. Con người cần đấu tranh với chính mình để hoàn thiện nhân cách.
– Chia sẻ góc nhìn của bản thân: Trong mỗi con người đều có phần bản năng và ý thức xã hội. Nếu phần bản năng không được kiểm soát, con người sẽ sa xuống thành loài mãnh thú tàn bạo. Câu chuyện của Nguyễn Huy Thiệp đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về hiện tượng người tha hoá, mất nhân tính trong xã hội hiện nay.
Câu 1 (2,0 điểm):
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày cảm nhận về chi tiết: Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
Câu 2 (4,0 điểm):
Trong bộ phim Nhà bà Nữ của đạo diễn Trấn Thành, khi bày tỏ quan điểm với mẹ, nhân vật Ngọc Nhi thẳng thắn nói: Con thà thất bại trong ước mơ của con, còn hơn thành công trong ước mơ của mẹ.
Câu nói trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về khoảng cách thế hệ trong gia đình qua góc nhìn của người trẻ? Hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày những suy nghĩ đó.
Hướng dẫn giải:
Câu 1:
a. Xác định được yêu cầu về hình thức, dung lượng của đoạn văn:
Xác định đúng yêu cầu về hình thức và dung lượng (đoạn văn khoảng 200 chữ). Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Trình bày cảm nhận về chi tiết: Một vết đạn xuyên qua trán lão. Lão đã bắn được con thú lớn nhất đời mình.
c. Viết được đoạn văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng trên cơ sở đảm bảo các nội dung sau:
– Vị trí của chi tiết trong mạch truyện: Chi tiết lão thợ săn tự bắn vào trán mình, đó là lúc hắn bắn được con thú lớn nhất đời mình nằm ở phần kết thúc truyện.
– Phân tích giá trị của chi tiết:
+ Giá trị nội dung:
++ Bộc lộ ý nghĩa nhan đề: Nhan đề Con thú lớn nhất đặt ra một ẩn số về “con thú lớn nhất” mà lão thợ săn mong ước cả đời. Chi tiết kết thúc truyện đã bất ngờ hé lộ, hoá ra con thú lớn nhất đời không phải con vật trong thế giới tự nhiên mà là con thú tồn tại ngay trong bản thân người thợ săn.
++ Thể hiện tính cách nhân vật: Bạo tàn, vô nhân tính. Con thú lớn nhất là hình ảnh ẩn dụ cho phần con, phần bản năng. Khi phần lương tri mất đi, phần bản năng chi phối hành động, suy nghĩ, lối sống thì lão thợ săn sa xuống thành loài ác thú. Vì vậy, cuộc đời lão thợ săn kết thúc trong bi kịch.
++ Thể hiện chủ đề của tác phẩm: Nhà văn trăn trở trước vấn đề con người tha hoá, vô nhân tính trong xã hội hiện nay.
+ Giá trị nghệ thuật: Làm tăng tính sinh động, hấp dẫn cho câu chuyện; là mảnh ghép không thể thiếu của cốt truyện.
– Đánh giá: Chi tiết nghệ thuật độc đáo, đặc sắc làm nên tầm vóc nhà văn lớn; nhà văn thức tỉnh con người đấu tranh với phần bản năng để hoàn thiện phần người cao quý.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết trong đoạn văn.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ.
Câu 2:
a. Đảm bảo bố cục và dung lượng của bài văn nghị luận: Đảm bảo yêu cầu về bố cục và dung lượng (khoảng 600 chữ) của bài văn.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Khoảng cách thế hệ trong gia đình qua góc nhìn của người trẻ.
c. Viết được bài văn nghị luận đảm bảo các yêu cầu:
Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:
* Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
* Thân bài:
– Giải thích:
+ Câu nói của nhân vật Ngọc Nhi: Thể hiện thái độ quyết liệt từ chối việc bị áp đặt quan điểm, suy nghĩ của mẹ lên bản thân.
+ Khoảng cách thế hệ: Sự cách biệt về tuổi tác, đặc điểm tâm lí, lối sống, nếp nghĩ, tính cách,... của những người thuộc các thế hệ khác nhau.
→ Vấn đề nghị luận: Suy nghĩ và hành động của người trẻ trước vấn đề thường gặp trong gia đình – khoảng cách thế hệ giữa ông bà, cha mẹ, con cháu.
– Bàn luận:
+ Mỗi thế hệ sinh ra và lớn lên trong những bối cảnh khác nhau sẽ có những khác biệt về quan điểm, tính cách. Khi cùng chung sống trong một gia đình, thường xuyên có những tương tác với nhau, sự khác biệt thế hệ càng thể hiện rõ.
+ Mỗi thế hệ có những điểm mạnh riêng: Thế hệ ông bà, cha mẹ giàu kinh nghiệm sống thực tế; thế hệ con cháu nhanh nhạy thích ứng với sự thay đổi của thời đại mới. Mọi sự áp đặt, “đồng hóa” về quan điểm, tư tưởng lên cuộc sống của người khác, thế hệ khác dễ tạo ra những xung đột, mâu thuẫn, khiến khoảng cách thế hệ ngày càng lớn hơn.
– Mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác:
+ Để xóa bỏ khoảng cách thế hệ, các thành viên trong gia đình cần tôn trọng, lắng nghe, chia sẻ cùng nhau; có thể tham gia tư vấn, gợi ý nhưng không nên bắt buộc người khác phải làm theo, bởi ai cũng có một cuộc đời để sống và khát khao được sống theo cách bản thân mong muốn.
+ Mục tiêu của cha mẹ không phải lúc nào cũng mâu thuẫn với mục tiêu của con cái. Vì vậy, không nên chọn góc nhìn cực đoan, phiến diện, phủ định nhau mà cần hướng tới lắng nghe, dung hòa, phát huy điểm mạnh của từng thành viên, vừa tạo sự kế thừa, vừa phát triển những giá trị mới.
+ Nhận thức được khoảng cách thế hệ trong gia đình là điều khó tránh khỏi nhưng có thể dung hòa được trên cơ sở tình thương và sự tôn trọng, thấu hiểu; chủ động chia sẻ nhiều hơn với thế hệ đi trước để kế thừa kinh nghiệm, tạo cơ hội để các thế hệ thấu hiểu nhau,...
* Kết bài: Khái quát vấn đề nghị luận.
Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Diễn đạt: Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ pháp tiếng Việt, liên kết văn bản.
e. Sáng tạo: Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ.