Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng bao gồm:
I. Tìm hiểu chung
1. Nhà thơ Trần Đăng Khoa
2. Nhà văn Tô Hoài
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Xác định mục đích, cách thức, nội dung, ý nghĩa của bài phỏng vấn
2. Lí giải về đặc điểm của bài phỏng vấn và ấn tượng của người nghe/ người đọc
3. Mở rộng hiểu biết về đối tượng thông tin
III. Tổng kết
Về tác giả Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Khoa (26 - 4 - 1958), quê ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
- Ông bắt sáng tác từ rất sớm, năm 8 tuổi ông đã có một số sáng tác được in trên báo.
- Nhà thơ đã có 1 thời gian khá dài sinh sống, công tác gắn bó với Hà Nội.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Góc sân và khoảng trời, Đảo chìm, Khúc hát người anh hùng,…
Điền thông tin vào chỗ trống.
- Trần Đăng Khoa (), quê ở .
- Ông sáng tác từ rất sớm, năm tuổi đã có một số sáng tác được in trên báo.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: "Góc sân và khoảng trời", , "Khúc hát người anh hùng",...
CÙNG NHÀ VĂN TÔ HOÀI NGẮM PHỐ PHƯỜNG HÀ NỘI
[...]
Trần Đăng Khoa: Thưa nhà văn Tô Hoài, có thể xem ông như một nhà Hà Nội học, mặc dù ông không nghiên cứu. Nhưng với một sự am hiểu khá thấu đáo, cặn kẽ, qua con mắt của một nhân chứng, trong suốt gần một... thế kỉ nay, ông thấy Hà Nội xưa thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Tôi không phải nhà Hà Nội học. Tôi hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...
Trần Đăng Khoa: Nghĩa là không có gì đổi khác?
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Trừ những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt chẳng hạn, còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tí chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, và hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lí do dùng đá ốp vỉa hè thì cũng đơn giản thôi, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi măng. Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mùa mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Mác-xây (Marseille). Đó là nắp cống từ bên Pháp rồi sang bán ở nước ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp có mở Công ty Sa-crích (Sacric). Đấy là Công ty Gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ cũng tấp nập lắm.
Trần Đăng Khoa: Ông thấy Hồ Tây thuở ấy thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. [...]
Trần Đăng Khoa: Thế còn các khu phố Hà Nội?
Nhà văn Tô Hoài: Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết Trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên đường, tên phố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn đường là nối với các tỉnh khác. Cuối đường đã là tỉnh khác rồi. Ví như đường Huế nối với Hà Đông, đường Hàng Bột, hay đường Bạch Mai cũng thế. Cuối đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. Khu phố cổ, bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc,... Rồi khu phố cũ là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nổi như ông Phạm Quỳnh, và đúng chỗ Phạm Quỳnh thì đấy là “đường thông cù”. Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu... Khu phố mới, là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là khu dưới bãi [...].
Trần Đăng Khoa: Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?
Nhà văn Tô Hoài: Không, từ Yên Phụ trở lên Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương bây giờ. [...]
Trần Đăng Khoa: Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như ông nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống,... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ. Chắc ngày xưa mỗi khu phố là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chăng?
Nhà văn Tô Hoài: Không hẳn thế đâu. Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. Phố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ Hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá hủy trong những cuộc đánh nhau với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn. [...]
Trần Đăng Khoa: Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì ông sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.”.
Nhà văn Tô Hoài: Hà Nội do dân tứ phương lập nên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. Vì thế, muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam rồi nghiên cứu cả tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. [...] Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.
Trần Đăng Khoa: Ông đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Ta chỉ bổ sung mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.
Trần Đăng Khoa: Xin ông nói rõ hơn được không?
Nhà văn Tô Hoài: Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có năm tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Y-éc-xanh (Yersin) và tượng Pa-xtơ (Pasteur). Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Pháp. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tối tăm, bẩn thỉu hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiên, ông thạo võ hơn văn. Dân văn chương thì chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền, Bùi Thị Xuân, Lý Thường Kiệt, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản,... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tôi có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng trường mang tên Ba Đình. Làm gì có đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc lập để ghi nhớ ngày 2-9-1945. Nhưng Cụ Hồ không đồng ý. Cụ bảo mình đã tuyên bố với thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiếm Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình, đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt. [...]
Theo TRẦN ĐĂNG KHOA
(Hà Nội 36 góc nhìn, NGUYỄN THANH BÌNH tuyển chọn, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2003)
Mục đích của văn bản Cùng nhà văn Tô Hoài ngắm phố phường Hà Nội là gì?
CÙNG NHÀ VĂN TÔ HOÀI NGẮM PHỐ PHƯỜNG HÀ NỘI
[...]
Trần Đăng Khoa: Thưa nhà văn Tô Hoài, có thể xem ông như một nhà Hà Nội học, mặc dù ông không nghiên cứu. Nhưng với một sự am hiểu khá thấu đáo, cặn kẽ, qua con mắt của một nhân chứng, trong suốt gần một... thế kỉ nay, ông thấy Hà Nội xưa thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Tôi không phải nhà Hà Nội học. Tôi hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...
Trần Đăng Khoa: Nghĩa là không có gì đổi khác?
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Trừ những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt chẳng hạn, còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tí chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, và hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lí do dùng đá ốp vỉa hè thì cũng đơn giản thôi, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi măng. Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mùa mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Mác-xây (Marseille). Đó là nắp cống từ bên Pháp rồi sang bán ở nước ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp có mở Công ty Sa-crích (Sacric). Đấy là Công ty Gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ cũng tấp nập lắm.
Trần Đăng Khoa: Ông thấy Hồ Tây thuở ấy thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. [...]
Trần Đăng Khoa: Thế còn các khu phố Hà Nội?
Nhà văn Tô Hoài: Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết Trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên đường, tên phố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn đường là nối với các tỉnh khác. Cuối đường đã là tỉnh khác rồi. Ví như đường Huế nối với Hà Đông, đường Hàng Bột, hay đường Bạch Mai cũng thế. Cuối đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. Khu phố cổ, bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc,... Rồi khu phố cũ là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nổi như ông Phạm Quỳnh, và đúng chỗ Phạm Quỳnh thì đấy là “đường thông cù”. Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu... Khu phố mới, là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là khu dưới bãi [...].
Trần Đăng Khoa: Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?
Nhà văn Tô Hoài: Không, từ Yên Phụ trở lên Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương bây giờ. [...]
Trần Đăng Khoa: Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như ông nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống,... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ. Chắc ngày xưa mỗi khu phố là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chăng?
Nhà văn Tô Hoài: Không hẳn thế đâu. Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. Phố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ Hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá hủy trong những cuộc đánh nhau với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn. [...]
Trần Đăng Khoa: Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì ông sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.”.
Nhà văn Tô Hoài: Hà Nội do dân tứ phương lập nên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. Vì thế, muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam rồi nghiên cứu cả tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. [...] Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.
Trần Đăng Khoa: Ông đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Ta chỉ bổ sung mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.
Trần Đăng Khoa: Xin ông nói rõ hơn được không?
Nhà văn Tô Hoài: Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có năm tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Y-éc-xanh (Yersin) và tượng Pa-xtơ (Pasteur). Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Pháp. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tối tăm, bẩn thỉu hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiên, ông thạo võ hơn văn. Dân văn chương thì chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền, Bùi Thị Xuân, Lý Thường Kiệt, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản,... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tôi có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng trường mang tên Ba Đình. Làm gì có đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc lập để ghi nhớ ngày 2-9-1945. Nhưng Cụ Hồ không đồng ý. Cụ bảo mình đã tuyên bố với thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiếm Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình, đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt. [...]
Theo TRẦN ĐĂNG KHOA
(Hà Nội 36 góc nhìn, NGUYỄN THANH BÌNH tuyển chọn, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2003)
Điền từ ngữ thích hợp vào chỗ trống.
Điểm đặc biệt trong cách thức phỏng vấn của văn bản bao gồm:
- Cách thức phỏng vấn: .
- Sử dụng hệ thống và lời đáp liên tục, nối tiếp, thể hiện sự giữa người phỏng vấn với người được phỏng vấn.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
CÙNG NHÀ VĂN TÔ HOÀI NGẮM PHỐ PHƯỜNG HÀ NỘI
[...]
Trần Đăng Khoa: Thưa nhà văn Tô Hoài, có thể xem ông như một nhà Hà Nội học, mặc dù ông không nghiên cứu. Nhưng với một sự am hiểu khá thấu đáo, cặn kẽ, qua con mắt của một nhân chứng, trong suốt gần một... thế kỉ nay, ông thấy Hà Nội xưa thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Tôi không phải nhà Hà Nội học. Tôi hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...
Trần Đăng Khoa: Nghĩa là không có gì đổi khác?
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Trừ những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt chẳng hạn, còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tí chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, và hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lí do dùng đá ốp vỉa hè thì cũng đơn giản thôi, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi măng. Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mùa mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Mác-xây (Marseille). Đó là nắp cống từ bên Pháp rồi sang bán ở nước ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp có mở Công ty Sa-crích (Sacric). Đấy là Công ty Gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ cũng tấp nập lắm.
Trần Đăng Khoa: Ông thấy Hồ Tây thuở ấy thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. [...]
Trần Đăng Khoa: Thế còn các khu phố Hà Nội?
Nhà văn Tô Hoài: Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết Trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên đường, tên phố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn đường là nối với các tỉnh khác. Cuối đường đã là tỉnh khác rồi. Ví như đường Huế nối với Hà Đông, đường Hàng Bột, hay đường Bạch Mai cũng thế. Cuối đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. Khu phố cổ, bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc,... Rồi khu phố cũ là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nổi như ông Phạm Quỳnh, và đúng chỗ Phạm Quỳnh thì đấy là “đường thông cù”. Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu... Khu phố mới, là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là khu dưới bãi [...].
Trần Đăng Khoa: Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?
Nhà văn Tô Hoài: Không, từ Yên Phụ trở lên Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương bây giờ. [...]
Trần Đăng Khoa: Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như ông nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống,... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ. Chắc ngày xưa mỗi khu phố là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chăng?
Nhà văn Tô Hoài: Không hẳn thế đâu. Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. Phố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ Hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá hủy trong những cuộc đánh nhau với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn. [...]
Trần Đăng Khoa: Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì ông sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.”.
Nhà văn Tô Hoài: Hà Nội do dân tứ phương lập nên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. Vì thế, muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam rồi nghiên cứu cả tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. [...] Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.
Trần Đăng Khoa: Ông đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Ta chỉ bổ sung mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.
Trần Đăng Khoa: Xin ông nói rõ hơn được không?
Nhà văn Tô Hoài: Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có năm tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Y-éc-xanh (Yersin) và tượng Pa-xtơ (Pasteur). Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Pháp. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tối tăm, bẩn thỉu hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiên, ông thạo võ hơn văn. Dân văn chương thì chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền, Bùi Thị Xuân, Lý Thường Kiệt, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản,... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tôi có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng trường mang tên Ba Đình. Làm gì có đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc lập để ghi nhớ ngày 2-9-1945. Nhưng Cụ Hồ không đồng ý. Cụ bảo mình đã tuyên bố với thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiếm Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình, đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt. [...]
Theo TRẦN ĐĂNG KHOA
(Hà Nội 36 góc nhìn, NGUYỄN THANH BÌNH tuyển chọn, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2003)
Nối những yếu tố thuộc về lời thoại dưới đây với đặc điểm tương ứng được thể hiện trong bài phỏng vấn.
CÙNG NHÀ VĂN TÔ HOÀI NGẮM PHỐ PHƯỜNG HÀ NỘI
[...]
Trần Đăng Khoa: Thưa nhà văn Tô Hoài, có thể xem ông như một nhà Hà Nội học, mặc dù ông không nghiên cứu. Nhưng với một sự am hiểu khá thấu đáo, cặn kẽ, qua con mắt của một nhân chứng, trong suốt gần một... thế kỉ nay, ông thấy Hà Nội xưa thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Tôi không phải nhà Hà Nội học. Tôi hiểu Hà Nội thì cũng là hiểu một cách rất tự nhiên thôi. Tôi sinh ở Hà Nội. Hà Nội trước thế nào thì bây giờ tôi thấy nó cũng vẫn như thế...
Trần Đăng Khoa: Nghĩa là không có gì đổi khác?
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Trừ những khu mới mở, như đường Hoàng Quốc Việt chẳng hạn, còn các khu phố cũ vẫn thế. Nhà cửa có thể khác tí chút, có tân trang hơn hoặc nâng thêm tầng, nhưng đường phố vẫn vậy, nên phố phường về cơ bản vẫn không có gì thay đổi. Ngày xưa thế nào thì bây giờ vẫn thế. Tôi có thể nhắm mắt đi đến khu phố nào cũng được. Vỉa hè vẫn là vỉa hè cũ. Ở các phố Ngô Quyền, Hàng Khay, Tràng Tiền, Hàng Bài, hay Nguyễn Xí, Đinh Lễ, vỉa hè còn bọc đá xanh. Đấy là vỉa hè xưa, và hè đầu tiên của Hà Nội. Đá bọc vỉa hè là đá lấy từ núi Thầy, núi Trầm. Lí do dùng đá ốp vỉa hè thì cũng đơn giản thôi, vì dạo ấy ta chưa có lắm xi măng. Đi trên đường phố Hà Nội, tôi thấy quen thuộc vô cùng. Cả hệ thống cống ngầm bên dưới cũng thế, cũng là hệ thống cũ. Vì thế, bây giờ mùa mưa, đường Hà Nội ngập úng là tất nhiên, vì quá tải. Ta còn thấy những nắp cống tròn còn nguyên cả dòng chữ Mác-xây (Marseille). Đó là nắp cống từ bên Pháp rồi sang bán ở nước ta. Hồi bấy giờ, ở phố Quán Thánh, ngay cạnh đền Quán Thánh bây giờ, Pháp có mở Công ty Sa-crích (Sacric). Đấy là Công ty Gạch ngói Đông Dương. Khu sản xuất khá rộng, đến mấy ngàn mét vuông. Đất sét đóng gạch lấy ở Quán La, bên kia Tây Hồ, rồi dùng thuyền chở sang. Thuyền bè bấy giờ cũng tấp nập lắm.
Trần Đăng Khoa: Ông thấy Hồ Tây thuở ấy thế nào?
Nhà văn Tô Hoài: Bây giờ Hồ Tây bị thu hẹp lại vì trò lấn đất. Trước đây rộng lắm. Ngút ngát cả một vùng trời nước. Xung quanh hồ, um tùm cây lá rậm rạp. Ven bờ, người ta còn thả sen. Nhiều sen lắm. Sau bỏ sen để nuôi cá mè, vì cá mè hay rúc vào bãi sen, tróc vảy chết. Trước đây, ở Hồ Tây không có cá mè đâu. Người ta chỉ thả một loại cá trắm. Cá mè tanh. [...]
Trần Đăng Khoa: Thế còn các khu phố Hà Nội?
Nhà văn Tô Hoài: Địa giới Hà Nội xưa rất hẹp. Đi hết Trường Chu Văn An bây giờ đã là đất Hà Đông rồi. Làng Yên Phụ cũng thuộc đất Hà Đông. Người Pháp xưa đặt tên đường, tên phố rất rành rẽ. Phố là địa giới nằm trong khu vực nội thị, còn đường là nối với các tỉnh khác. Cuối đường đã là tỉnh khác rồi. Ví như đường Huế nối với Hà Đông, đường Hàng Bột, hay đường Bạch Mai cũng thế. Cuối đường là địa phận của tỉnh khác. Về mặt hành chính, Hà Nội được chia ra làm bốn khu. Khu phố cổ, bao gồm địa danh của 36 phố phường xưa, như Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Thiếc,... Rồi khu phố cũ là khu phố xây dựng từ thời Tây, có những biệt thự kiểu Tây, như phố Hàng Khay, Tràng Thi, Bùi Thị Xuân, Huyền Trân Công Chúa, Phan Đình Phùng, hai bên đường, có vỉa hè xây và trồng cây hai bên, cành lá giao nhau, nổi như ông Phạm Quỳnh, và đúng chỗ Phạm Quỳnh thì đấy là “đường thông cù”. Đó là khu ở của những ông Tham, ông Phán hoặc dân nhà giàu... Khu phố mới, là khu phố được nới ra, xây dựng sau này. Còn khu thứ tư là khu dưới bãi [...].
Trần Đăng Khoa: Chắc đó là vùng Nghi Tàm, Yên Phụ bây giờ?
Nhà văn Tô Hoài: Không, từ Yên Phụ trở lên Nghi Tàm xưa là đất trồng dâu, trồng ngô. Còn khu dưới bãi là vùng An Dương, Chương Dương bây giờ. [...]
Trần Đăng Khoa: Ở Hà Nội, trong số 36 phố phường như ông nói, có những tên phố rất lạ: Hàng Đường, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Mắm, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Buồm, Hàng Trống,... Nghe cứ như tên các quán hàng. Có cảm giác Hà Nội là một cái chợ. Chắc ngày xưa mỗi khu phố là một nơi sản xuất và buôn bán các mặt hàng riêng biệt. Ví như Hàng Rươi bán rươi, Hàng Mắm bán... mắm chăng?
Nhà văn Tô Hoài: Không hẳn thế đâu. Có rất nhiều mặt hàng, người ta sản xuất ở quê, ở Hà Đông và các vùng phụ cận rồi đem ra bán ở Hà Nội. Như đồ gò đúc đồng, rồi guốc dép, mũ nón. Trước đây, Hà Nội còn có phố Hàng Tiện và phố Hàng Dép nữa. Đó là hai phố nhỏ. Phố Hàng Tiện ở bên Hàng Gai trông ra phía Bờ Hồ, phố Hàng Dép ở đầu Hàng Buồm. Hai phố này, năm 1945 bị phá hủy trong những cuộc đánh nhau với Pháp, rồi cũng từ đấy bị mất phố luôn. [...]
Trần Đăng Khoa: Nếu cần nói thật ngắn gọn về tính cách người Hà Nội thì ông sẽ nói thế nào? Thanh lịch hào hoa chăng? Ca dao xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.”.
Nhà văn Tô Hoài: Hà Nội do dân tứ phương lập nên. Người Hà Nội gốc có lẽ chỉ là mấy anh đánh cá ở sông Tô Lịch. Chẳng có ai sống ở Hà Nội được đến mười đời. Vì thế, muốn hiểu tính cách người Hà Nội, ta phải tìm hiểu tính cách chung của người Việt Nam rồi nghiên cứu cả tính người thành thị thì mới ra tính cách người Hà Nội. Tất nhiên người Hà Nội có nét hào hoa phong nhã, nhưng đấy không phải tận gốc mà là tinh hoa của nhiều vùng đất tạo nên. [...] Vì thế, ở Hà Nội tuyệt nhiên không có chuyện cục bộ địa phương. Tôi cho đó cũng là một nét rất hay của Hà Nội.
Trần Đăng Khoa: Ông đã nói Hà Nội trước đây thế nào thì bây giờ vẫn thế...
Nhà văn Tô Hoài: Đúng vậy. Ta chỉ bổ sung mà ít thay đổi. Về cơ bản, ta vẫn giữ nguyên như cách bố trí, sắp đặt của ông Trần Văn Lai.
Trần Đăng Khoa: Xin ông nói rõ hơn được không?
Nhà văn Tô Hoài: Trần Văn Lai là một bác sĩ. Ông là người tốt, người yêu nước. Chính vì thế, thực dân Pháp đã bỏ tù ông. Tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông được ra tù và được mời làm Thị trưởng thành phố. Trần Văn Lai chỉ làm Thị trưởng có năm tháng, từ tháng Ba đến tháng Tám năm 1945, nhưng ông đã làm được hai việc rất cơ bản. Một là đập hết các tượng đài của Pháp, chỉ để lại hai tượng bán thân là tượng Y-éc-xanh (Yersin) và tượng Pa-xtơ (Pasteur). Hai là thay lại các tên phố. Trước đây, phố Hà Nội hầu hết mang tên Tây, hoặc tên những người Việt có công với Pháp. Một số danh nhân của ta cũng được đặt tên, nhưng lại ở những phố tối tăm, bẩn thỉu hoặc hẻo lánh. Ông Trần Văn Lai thay lại hết. Tất nhiên, ông thạo võ hơn văn. Dân văn chương thì chỉ biết Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm cho đến Tú Xương là hết. Dân võ ông biết nhiều hơn. Tất cả những người ông biết, ông đều đặt hết tên phố. Đặc biệt, ông rất yêu các vị võ tướng: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Ngô Quyền, Bùi Thị Xuân, Lý Thường Kiệt, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản,... Toàn là các võ tướng lừng danh cả. Rồi lại cả Ba Đình nữa. Tôi có đọc trong một tờ báo, thấy có anh giải thích rằng trước đây ở khu Quảng trường này có ba... cái đình nên Quảng trường mang tên Ba Đình. Làm gì có đình nào ở đấy cơ chứ. Ba Đình là cuộc khởi nghĩa của ông Đinh Công Tráng ở Thanh Hoá. Quảng trường mang tên cuộc khởi nghĩa ấy. Sau này, ta định đổi thành Quảng trường Độc lập để ghi nhớ ngày 2-9-1945. Nhưng Cụ Hồ không đồng ý. Cụ bảo mình đã tuyên bố với thế giới là Tuyên ngôn Độc lập đọc ở Quảng trường Ba Đình rồi, giờ không nên thay đổi nữa. Pháp tái chiếm Hà Nội, chúng thay là Quảng trường Hồng Bàng. Sau khi ta thắng Pháp, Quảng trường trở lại tên Ba Đình, đúng như cái tên ông Trần Văn Lai đã đặt. [...]
Theo TRẦN ĐĂNG KHOA
(Hà Nội 36 góc nhìn, NGUYỄN THANH BÌNH tuyển chọn, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2003)
Chọn những thông tin được cung cấp trong văn bản.
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- cô Chào tất cả các em Chào mừng các em
- đã quay trở lại với khóa học Ngư văn lớp
- 9 bộ sách cánh diều trên trang web
- olm.vn các em thân mến Hà Nội không chỉ
- là thủ đô nì năm văn hiến mà còn là một
- miền ký ức đó là những con phố Diêu
- Phong thấm đượm dấu vết thời gian là mùa
- thu xe lạnh thoáng hươm cốm là tiếng Dao
- quen thuộc vang lên trong sớm mai tĩnh
- lặng Hà Nội Giản dị mà sâu lắng khiến ai
- một lần nghe qua cũng mang theo nỗi nhớ
- vậy Hà Nội trong mắt những người gắn bó
- với nơi này ra sao Hãy cùng cô tìm hiểu
- những chia sẻ của nhà văn Tô Hoài trong
- bài phỏng vấn Cùng nhà văn Tô Hoài ngắm
- phố phường Hà Nội
- nhé Trên đây là nội dung và học bao gồm
- ba phần phần thứ nhất Chúng mình sẽ tìm
- hiểu về nhà thơ Trần Đăng Khoa và nhà
- văn Tô Hoài phần thứ hai chúng mình sẽ
- cùng nhau tìm hiểu một số nội dung như
- là mục đích cách thức nội dung ý nghĩa
- của bài phỏng vấn rồi là tìm hiểu về đặc
- điểm của bài phỏng vấn và ấn tượng của
- người đọc người nghe và cuối cùng là mở
- rộng hiểu biết về đối tượng thông tin và
- phần ba là mã là phần tổng
- kết chúng mình đến với phần một là mã
- tìm hiểu
- chung một một nhỏ Tìm hiểu về nhà thơ
- Trần Đăng Khoa em hãy thực hiện bài tập
- sau đây để tìm hiểu thông tin về nhà thơ
- Trần Đăng Khoa
- nhé Rất tốt nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh
- ngày 26 tháng 0 năm 1958 quê ở làng trực
- Trì xã Quốc Tuấn huyện Nam Sách tỉnh Hải
- Dương Ông là một nhà thơ nhà báo biên
- tập viên của tạp chí văn nghệ quân đội
- là phó chủ tịch của hội nhà văn Việt Nam
- ông bắt đầu sáng tác từ rất sớm năm8
- tuổi ông đã có một số sáng tác được in
- trên báo và nhà thơ Trần Đăng qua đã có
- một khoảng thời gian khá dài sinh sống
- công tác gắn bó với Hà Nội một số tác
- phẩm tiêu biểu của ông mà chúng ta có
- thể kể đế như là tập thơ Góc Sân Và
- Khoảng Trời xất bản năm
- 1968 bao gồm 107 bài thơ đây được coi là
- tập thơ tiêu biểu nhất của ông khi được
- tái bản khoảng 30 lần được dịch và xuất
- bản tại nhiều nước trên toàn thế giới
- rồi là tập truyện ký đảo chìm xuất bản
- năm 2002 tính đến đầu năm 2009 đã tái
- bản khoảng 25 lần rồi là trường ga Khúc
- Hát Người anh hùng xuất bản năm 1974 vân
- vân chúng mình đến với phần hai nhỏ Tìm
- hiểu về nhà văn Tô Hoài nhà văn Tô Hoài
- sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 mất ngày
- mùng 6 tháng 7 năm 2014 tên khai sinh là
- Nguyễn sen ông sinh ra tại quê nội là
- thôn Cát Động thị trấn Kim bài huyện
- Thanh Oai tỉnh hà đông cũ nay thuộc
- phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy Hà Nội
- trong một gia đình làm nề thủ Công Chính
- vì nhà văn Tô Hoài được sinh ra và lớn
- lên ở Hà Nội nên ông gắn bó với Hà Nội
- rất sâu sắc Ông được nhà nước trao tặng
- giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và
- nghệ thuật đợt 1 năm
- 1996 cho các tác phẩm như là xóm giếng
- nhà nghèo o chuột giấy mèn phiê lưu ký
- núi cứu Quốc Truyện Tây Bắc 10 năm xuống
- làng Vân
- Vân chúng mình đến với phần hai là mã
- Tìm hiểu chi
- tiết một nhỏ xác định mục đích cách thức
- nội dung ý nghĩa của bài phỏng
- vấn trước hết là về mục đích theo em mục
- đích của văn bản này là
- gì À đúng rồi đấy mục đích của văn bản
- này chính là tìm hiểu về địa giới Phố
- Phương con người Hà Nội qua nhà văn Tô
- Hoài người có những hiểu biết sâu sắc về
- Hà Nội về cách thức của cuộc phỏng vấn
- này chính là phỏng vấn trực tiếp nội
- dung của bài phỏng vấn chính là những
- chia sẻ của nhà văn Tô Hoài về lịch sử
- của thành phố Hà Nội trong gần một thế
- kỷ nhất là từ sau năm 1945 đến thời điểm
- phỏng vấn là năm
- 2003 ý nghĩa của bài phỏng vấn này chính
- là giúp cho người đọc hiểu thêm về phố
- phường Hà Nội như là tên gọi về gạch lát
- cống ngầm tên các thành phố cổ vân vân
- rồi về Hồ Tây về nhân vật lịch sử gắn
- với thành phố chính là bác sĩ Trần Vân
- lai chúng mình đến với phần hai nhỏ lý
- giải về đặc điểm của bài phỏng vấn và ấn
- tượng của người nghe người đọc
- đặc điểm của bài phỏng vấn này có thể
- được khái quát lại thông qua những yếu
- tố sau đây thứ nhất là về người tham gia
- người phỏng vấn chính là nhà thơ Trần
- Đăng Khoa và người được phỏng vấn chính
- là nhà văn Tô Hoài vì mục đích của cuộc
- phỏng vấn này chính là thu thập thông
- tin về lịch sử văn hóa phố phường con
- người Hà Nội từ nhà văn Tô Hoài còn về
- cách thức theo em cách thức phỏng vấn
- của văn bản này có gì đặc biệt Em hãy
- chỉ ra những điểm đặc biệt ấy qua câu
- hỏi tương tác sau đây nhé
- chính xác cuộc phòng vấn này diễn ra
- theo hình thức trực tiếp sử dụng hệ
- thống câu hỏi và lời đáp liên tục nối
- tiếp qua đó thể hiện sự tương tác giữa
- người phỏng vấn với người được phỏng vấn
- về ấn tượng đối với người đọc và người
- nghe văn bản này ấn tượng người đọc và
- người nghe thông qua hệ thống câu hỏi và
- câu trả lời về khu vực Hà Nội cho thấy
- sự hiểu biết tường tận sâu sắc của nhà
- văn Tô Hoà một cuốn từ điển sống về phố
- phường Hà
- Nội còn về lời thoại theo em lời thoại
- của người phỏng vấn và người được phỏng
- vấn có đặc điểm
- gì rất chính xác câu hỏi của người phỏng
- vấn rất ngắn gọn và rõ ràng Còn câu trả
- lời của người được phỏng vấn thì cụ thể
- chi tiết và nhiều thông
- tin chúng mình cùng đến với phần ba nhỏ
- mở rộng hiểu biết về đối tượng thông
- tin sau khi học xong văn bản chúng ta
- thu thập được những thông tin gì
- rất chính xác sau khi học xong văn bản
- này chúng ta thu thập được một số thông
- tin sau đây thứ nhất đó là tri thức về
- phố phường Hà Nội về con người Hà Nội
- như là không gian hồ Tây trước đây rất
- rộng ngốt ngàn cả một vùng trời nước ven
- bờ thả nhiều sen về hành chính Hà Nội có
- bốn khu khu phố Cổ Phố Cũ phố mới và khu
- dưới bãi Người Hà Nội có nét hào hoa
- phong nhã là do tinh hoa của nhiều vùng
- đất tạo nên rồi là tri thức về người góp
- phần tạo nên diện mạo của Hà Nội người
- góp phần tạo nên diện mạo cho các tên
- đường tên phố địa danh của Hà Nội chính
- là bác sĩ Trần Văn Lai một bác sĩ yêu
- nước khi ông được làm thị trưởng thành
- phố trong thời gian ngắn từ tháng 3 đến
- tháng 8 năm
- 1945 thông qua những thông tin kể trên
- thì bài phỏng vấn này mang đến cho chúng
- ta những cảm xúc và suy nghĩ sau đây thứ
- nhất đó là tình cảm suy nghĩ dành cho Hà
- Nội đó là thêm yêu quý tự hào về thủ đô
- Hà Nội với những vẻ đẹp của giá trị văn
- hóa tinh thần rồi là biết ơn những người
- đã góp công sức và trí tuệ để chúng ta
- có được Hà Nội ngày hôm
- nay bên cạnh đó bài phỏng vấn này còn
- mang đến cho chúng ta tình cảm và suy
- nghĩ dành cho những người tham gia phỏng
- vấn đó là sự kính phục sự trân trọng vẻ
- đẹp trí tuệ và tâm hồn của nhà văn Tô
- hoai khi nghe ông chia sẻ những tri thức
- về Hà
- Nội chúng mình đến với phần ba la mã
- tổng
- kết sau khi tìm hiểu xong những đặc điểm
- của một bài phỏng vấn chúng ta có thể
- rút ra được cách đọc một bài phỏng vấn
- như sau thứ nhất đó là xác định người
- tham gia bao gồm người phỏng vấn và
- người được phỏng vấn hai là tìm hiểu về
- cách thức thực hiện của phỏng vấn cho
- chuyện trực tiếp thông qua hệ thống câu
- hỏi câu trả lời nối kết liên tiếp hay là
- trao đổi giản tiếp thông qua điện thoại
- email vân vân ba là xác định mục đích
- phỏng vấn Tìm hiểu về thông tin về đối
- tượng được phỏng vấn hay cung cấp thông
- tin về một lĩnh vực cụ thể nào đó và bốn
- là lưu tâm đến những đặc điểm của lời
- thoại câu hỏi phỏng vấn có ngắn gọn rõ
- ràng hay không câu trả lời có bám sát
- trọng tâm câu hỏi hay không có cung cấp
- thông tin cụ thể chi tiết hay không Các
- em thân mến nội dung này cũng đã kết
- thúc bài học của chúng ta rồi cảm ơn các
- em đã quan tâm và theo dõi hẹn gặp lại
- các em trong những bài giảng tiếp theo
- trên trang web olm.vn
- [âm nhạc]
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây