Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 0 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:

Chí khí anh hùng SVIP
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Tên chữ (tự) của đại thi hào Nguyễn Du là gì?
MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ TÁC GIA NGUYỄN DU
Nguyễn Du (1765 − 1820), tên chữ (tự) là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên; quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Thân phụ Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731), từng giữ chức Tham tụng trong triều Lê. Thân mẫu Nguyễn Du là Trần Thị Tần, người làng Hoa Thiều, Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khi cha mẹ qua đời, Nguyễn Du được người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản (từng giữ chức Bồi tụng trong phủ chúa Trịnh) nuôi nấng.
Nguyễn Du sinh trưởng trong một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và làm quan; có truyền thống văn chương. Cuộc đời ông gắn liền với bối cảnh lịch sử đầy biến động dữ dội nên trải nhiều thăng trầm.
Các dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Du:
+ Thời thơ ấu: Sống trong vàng son, nhung lụa.
+ Năm 1784: Kiêu binh nổi loạn phá dinh thự của Nguyễn Khản.
+ Năm 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi, gia đình Nguyễn Du li tán.
+ Năm 1802: Triều Tây Sơn diệt vong, Nguyễn Ánh lập ra triều đại mới lấy hiệu là Gia Long. Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ Năm 1813: Đảm nhận sứ mệnh dẫn đầu sứ bộ đi Trung Quốc.
+ Năm 1820: Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi, cử Nguyễn Du làm chánh sứ nhưng chưa kịp khởi hành thì ông lâm bệnh qua đời.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du để lại một sự nghiệp văn chương quý giá, gồm các tác phẩm được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
− Sáng tác chữ Hán:
+ Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên), Nam trung tạp ngâm (Thơ ngâm vịnh khi ở phương Nam) và Bắc hành tạp lục (Ghi chép trên hành trình đi sứ phương Bắc). Các thi tập của Nguyễn Du có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện trực tiếp chân dung tâm hồn và tư tưởng của tác giả.
+ Thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa lưu giữ thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn, vừa có khả năng khái quát hiện thực rất cao và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, ba tập thơ còn phản chiếu chân dung con người và quá trình vận động trong tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Đó là hành trình đi từ hiểu mình, thương mình đến thấu hiểu con người và thương đời.
− Sáng tác chữ Nôm:
+ Sáng tác chữ Nôm của Nguyễn Du hiện còn lưu giữ được gồm: Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, Thác lời trai phường nón, Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), Truyện Kiều.
+ Kiệt tác Truyện Kiều: Về giá trị tư tưởng, Truyện Kiều chứa đựng tư tưởng nhân đạo lớn lao, sâu sắc, độc đáo; Về giá trị nghệ thuật, Truyện Kiều kết tinh những thành tựu lớn trên nhiều bình diện nghệ thuật: cách tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự và trữ tình, ngôn ngữ và thể thơ,...
Với tư tưởng nhân đạo sâu sắc và những đóng góp to lớn ở cả hai bộ phận sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, Nguyễn Du được suy tôn là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Vào tháng 10 năm 2013, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Nguyễn Du là Danh nhân văn hoá của nhân loại.
Tác phẩm nào sau đây không phải của Nguyễn Du?
Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới
Kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du nguyên có tên là Đoạn trường tân thanh. Đây là tác phẩm truyện thơ Nôm lục bát viết dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Mượn bối cảnh xã hội Trung Quốc đời nhà Minh nhưng Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại lúc nhà thơ đang sống. Tác phẩm gồm 3.254 câu lục bát kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thuý Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, rơi vào cảnh "Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần", bị các thế lực phong kiến dày xéo, chà đạp.
Về giá trị hiện thực, tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Về giá trị nhân đạo, Truyện Kiều là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp của con người. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thuỷ trong xã hội mà quan niệm về tình yêu, hôn nhân còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim − Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc. Truyện Kiều còn là bài ca ca ngợi vẻ đẹp của con người. Đó là vẻ đẹp của tài, sắc, tình, lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thuỷ chung, chí khí anh hùng... Thuý Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. Thông qua nhân vật Từ Hải, người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả xã hội bạo tàn, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng.
Cùng với đó, Truyện Kiều còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo, chà đạp lên quyền sống con người. Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã kết hợp tài tình tinh hoa của ngôn ngữ bác học với tinh hoa của ngôn ngữ bình dân. Với Truyện Kiều, tiếng Việt và thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca. Vì thế, Truyện Kiều là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ là có một không hai trong lịch sử.
Nghệ thuật tự sự trong Truyện Kiều cũng đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc hoạ tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng Truyện Kiều là cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của văn học Việt Nam. Với những giá trị to lớn ấy, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều luôn được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với mọi tầng lớp độc giả từ trí thức tới người bình dân, làm lay động trái tim của bao thế hệ người Việt Nam, là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc hoạ sau này.
Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hoá nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hoà bình thế giới vinh danh ông là Danh nhân văn hoá thế giới. Hiện nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó tiếng Pháp có trên 10 bản dịch, tiếng Anh và tiếng Hàn Quốc trên 10 bản, tiếng Nhật 5 bản...
(Trích Cổng thông tin điện tử Tỉnh Cao Bằng, Đại thi hào Nguyễn Du − Danh nhân văn hoá thế giới, 2015)
Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết theo thể thơ nào dưới đây?
Điền vào chỗ trống.
Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm câu, kể về cuộc đời mười lăm năm chìm nổi của . Sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tiếp thu đề tài, từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Đoạn trích Chí khí anh hùng thuộc phần nào của tác phẩm Truyện Kiều?
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Xác định vị trí của đoạn trích Chí khí anh hùng trong tác phẩm Truyện Kiều.
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Giải nghĩa nhan đề Chí khí anh hùng bằng cách nối các yếu tố cấu thành với nghĩa tương ứng.
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Bố cục của đoạn trích Chí khí anh hùng bao gồm:
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, nhân vật Từ Hải hiện lên qua những phương diện nào dưới đây? (Chọn 2 đáp án)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, nhân vật Từ Hải hiện lên như thế nào?
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Nhận định nào dưới đây là sai khi nói về nhân vật Từ Hải?
Gạch chân những từ ngữ miêu tả bối cảnh, không gian trong đoạn trích sau.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Ý nghĩa của hình ảnh "hương lửa đương nồng" trong đoạn trích là gì? (Chọn 2 đáp án)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Ý nghĩa của hình ảnh "bốn phương" và "trời bể mênh mang" trong đoạn trích là gì? (Chọn 2 đáp án)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Điền vào chỗ trống.
Hình ảnh ước lệ “động lòng bốn phương”: cho thấy chí nguyện , thỏa chí nam nhi, thể hiện lý tưởng anh hùng trung đại, quyết tâm thay đổi .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Điền vào chỗ trống.
Trong đoạn trích Chí khí anh hùng, ngôn ngữ cùng với những bút pháp có tính nhân xưng, góp phần làm cho khuynh hướng trong ngòi bút Nguyễn Du thêm phần nổi bật.
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Yếu tố nào dưới đây thể hiện rõ đặc điểm ngôn ngữ nổi bật của đoạn trích Chí khí anh hùng?
Điền vào chỗ trống.
Hai dòng thơ "Nàng rằng: phận gái chữ tòng / Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi." thể hiện của Thuý Kiều: là người vợ có , biết sẻ chia cùng chồng, cư xử đúng .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Nối những cụm từ dưới đây với suy nghĩ, hành động, tính cách tương ứng của nhân vật Từ Hải.
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Nhận định nào dưới đây là sai khi nói về thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn trích Chí khí anh hùng?
Chí khí anh hùng
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
2213. Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta hãy rước nàng nghi gia.
2225. Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!".
Quyết lời dứt áo ra đi,
2230. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
(Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd, tr. 716 − 717)
Điền vào chỗ trống.
Qua nhân vật Từ Hải, tác giả muốn thể hiện quan niệm về người và gửi gắm ước mơ .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây