Nguyễn Đỗ Quỳnh Chi

Giới thiệu về bản thân

Hãy luôn sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhé!!!
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

viết theo khổ 6-8 

Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Nhắc đến ông, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề Bình Ngô đại cáo đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ. Bình có nghĩa là dẹp yên. Ngô ở đây chỉ giặc Minh. Đại cáo là bài cáo lớn mang dấu ấn trọng đại về những sự kiện lớn của đất nước. Ngay từ nhan đề đã gợi ra một tâm thế hào hùng.

Phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo để thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Chúng ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện ngay ở đoạn 1 của bài thơ.

Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa. Theo phạm trù của Nho giáo, nhân nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của các cuộc khởi nghĩa. Việc nhân nghĩa là vì con người, vì lẽ phải. Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi.

Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột, mang lại bình yên, no ấm cho nhân dân. Nói rộng ra trừ bạo chính là chống lại giặc xâm lược. Tác giả đã nêu rõ ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông đã vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược này. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt, để mang đến cho nhân dân thoát khỏi cuộc sống lầm than, khổ cực, đem lại no ấm cho nhân dân.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc

8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào.

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dùng từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.

Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm, chiếm lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán, văn hóa mỗi miền Bắc Nam cũng khác, không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.

Đặc biệt khi nhắc đến các triều đại trị vì xây nền độc lập, tác giả đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với “Hán, Đường, Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý liệt kê, vừa có ý đối đầu. Điều đó cho thấy lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ý thức về tự tôn, yêu nước cực kỳ lớn của tác giả. Và ở triều đại nào, thời nào thì hào kiệt đều có. Đây vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào vừa răn đe đối với quân xâm lược muốn thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia. Đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, điều đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.

Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.

Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nhà thơ đã dùng biện pháp liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ đi ngược lại với chân lý. Những dẫn chứng của ông từ các đời vô cùng thuyết phục. Lưu Cung là vua Nam Hán từng thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi cầm quân sang đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã… là các tướng của nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng tại nước ta khi cầm quân sang xâm lược… “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi được. Đây chính là lời cảnh cáo, răn đe đanh thép với chứng cớ đầy đủ, thuyết phục, rõ rành rành đối với kẻ phi chính nghĩa khi xâm phạm đến lãnh thổ của nước ta. Mượn lời thơ đanh thép, ông tuyên bố với kẻ thù: bất kỳ kẻ nào lăm le xâm chiếm bờ cõi Đại Việt đều sẽ phải gánh chịu thất bại ê chề. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.

Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt cân xứng, song đôi của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của nước Đại Việt.

Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng… Bình ngô đại cáo là áng hùng thi được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua những vần thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử, văn hiến của đất nước.

khơi, ơi, bơi,............

Ai trong chúng ta cũng đều có một quê hương để yêu thương, gắn bó và luôn nhớ về. Tôi cũng vậy. Từ khi còn nhỏ, tôi luôn hào hứng mỗi khi được về thăm ông bà nội và thăm quê. Quê hương cũng là nơi lưu giữ một kỉ niệm đáng nhớ về lần bị đuối nước mà tôi không thể nào quên.

Quê tôi là một ngôi làng nhỏ ven biển ở Thái Bình. Năm nào cũng vậy, cứ đến hè, tôi lại được bố mẹ cho về quê thăm ông bà và tận hưởng một khoảng thời gian ấm áp, ngập tràn niềm vui. Ngôi làng của ông bà tôi nhỏ bé, nằm nép mình trong một khu vườn xanh mát đầy cây ăn trái: mít, nhãn, bưởi, cam… Đặc biệt là những cây ổi cành lá xanh tươi quả sai trĩu trịt. Thế nhưng, thứ mà tôi thích nhất là được vui chơi ngoài biển. Và, vào mùa hè năm tám tuổi, tôi đã suýt bị chết đuối.

Ở quê, tôi đã kết thân với rất nhiều bạn hàng xóm. Vì là dân vùng biển, các bạn có làn da ngăm đen, trong rất rắn rỏi và bơi rất cừ. Chúng tôi tổ chức một cuộc thi bơi nho nhỏ vào buổi chiều tà. Tất cả đều hào hứng tham gia và hạ quyết tâm chiến thắng. Tôi cảm thấy khá tự tin vì đã biết bơi từ năm bốn tuổi. Biết đâu tôi lại về nhất thì sao! Nhanh chóng khởi động, chúng tôi lao ra biển. Làn nước biển xanh mát như ôm ấp, vuốt ve làn da tôi. Trên bờ, những tiếng hò hét, cổ vũ hết sức sôi động. Chúng tôi sải tay hết sức, không ai chịu ai. Bỗng nhiên, tôi thấy chân bên phải của mình bị tê cứng. Hoảng hốt. Sợ hãi. Bất ngờ. Tim tôi đập thình thịch vì lo lắng. Chắc chắn là mình bị chuột rút rồi. Tôi thầm nghĩ. Biết làm sao bây giờ nhỉ? Tôi bị chậm lại rồi dần dần tụt lại phía sau các bạn. Càng vùng vẫy, tay chân tôi càng cứng đờ, người chao đi vì mất thăng bằng. Tôi chìm dần, chìm dần, miệng mặn chát vì đã uống phải mấy ngụm nước biển. Chợt, tôi nghe tiếng ai hốt hoảng kêu lên :

- Các cậu ơi, hình như Minh bị chìm rồi!

Đó là giọng của Bình, người bạn thân nhất của tôi. Sau đó tôi lịm đi, không biết gì hết nữa. Đến lúc mở mắt, điều đầu tiên tôi nhìn thấy là khuôn mặt đầy lo lắng của ông bà. Các bạn của tôi thì xúm xít vây quanh. Khi tôi dần tỉnh lại, mọi người thở phào nhẹ nhõm. Nghe kể lại, tôi mới biết mình được một bác ngư dân cứu sống. Lúc đó, tôi đã uống đầy một bụng nước rồi. Khi nghe thấy tiếng hô hoán, bác ngư dân đã lao xuống, nhanh như cắt, bơi về phía tôi và cứu tôi lên bờ. Thật hú hồn! Chỉ một chút nữa thôi là tôi đã chết chìm rồi. Lỗi cũng là do tôi, vì vội vàng không khởi động kĩ nên mới bị chuột rút. Nhìn vào khuôn mặt lo lắng của ông và đôi mắt đầy nước của bà, tôi thấy vô cùng ân hận. Bà nghẹn ngào:

- Minh ơi! Con làm ông bà sợ quá. Nếu có chuyện gì xảy ra, ông bà biết phải làm sao, biết ăn nói thế nào với bố mẹ con…

Tôi òa khóc:

- Ông bà ơi, con xin lỗi, lần sau con sẽ cẩn thận hơn, con sẽ không làm ông bà lo lắng nữa!

Sau đó, ông bà đưa tôi đi cảm ơn bác ngư dân đã cứu tôi thoát chết. Buổi tối hôm đó, tôi cứ nằm nghĩ mãi về chuyện đã xảy ra. Tôi đã hiểu ra bài học rằng biển bao la và ẩn chứa bao điều thú vị, nhưng nếu chúng ta lơ là, bất cẩn, có thể gặp những nguy hiểm chết người. Dù vậy, tôi vẫn luôn yêu quê hương, yêu biển và mong muốn được về thăm quê.

Ảnh: Em chụp ảnh cùng ông bà nội và các em ở quê

 

Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, quê hương vẫn là nơi chất chứa yêu thương, nơi có ông bà nội và những người bạn tôi yêu quý. Trải nghiệm của tôi vào mùa hè năm ngoái là một trải nghiệm vô cùng đáng nhớ. Nó sẽ trở thành một bài học, thành hành trang cùng tôi đi suốt cuộc đời.

 

Ai cũng từng có một thời thơ ấu hồn nhiên, vô tư. Thời thơ ấu ấy đã để lại trong tôi nhiều trải nghiệm đáng nhớ. Có những trải nghiệm đã trở thành bài học hữu ích, như câu chuyện đã xảy ra với tôi năm lên mười.

Làng tôi vốn rất thanh bình, yên ả với một dòng sông êm đềm, chảy qua làng. Những bãi cát vàng ven sông đã trở thành nơi vui chơi lí tưởng của bọn trẻ chúng tôi. Ngày đó, tôi mới bắt đầu biết bơi. Vào những trưa hè đổ lửa, chúng tôi thường rủ nhau ra tắm sông và bơi lội thỏa thích dưới làn nước trong veo, mát lành của dòng sông. Điều ấy khiến tôi cảm thấy thích thú vô cùng! Do mới biết bơi nên tôi chỉ bơi men theo bờ. Mẹ cũng thường dặn tôi không được mạo hiểm bơi ra giữa sông và không hài lòng khi tôi tham gia vào những cuộc vui ấy. Tuy nhiên, thỉnh thoảng do hâm vui, toi vẫn trốn mẹ ra bờ sông chơi cùng bọn bạn.

Buổi trưa hôm ấy, sau khi đá bóng xong, chúng tôi rủ nhau ra sông tắm. Vào mùa hè, nước sông thường cạn nên chúng tôi tung tăng bơi lội, trêu đùa rộn rã cả một góc sông. Tắm mãi cũng chán nên chỉ một lát sau, đám bạn tôi đã nảy ra ý định tổ chức một cuộc thi bơi giữa đám trẻ trong và ngoài làng. Trước sự cổ vũ lẫn thách thức của đám bạn, tôi đã nhận lời thách đấu. Trận đấu diễn ra vô cùng căng thẳng, gay cấn, quyết liệt! Với tất cả sức lực của mình, tôi đã cố bơi thật nhanh nhưng không hiểu sao thằng bé làng bên, nhỏ hơn tôi hai tuổi, vẫn đeo bám tôi quyết liệt. Tôi chỉ biết cắm mặt, sải tay thật dài, đạp nước thật khỏe để tiến về phía trước.

Đến khi nhìn lại tôi nhận ra mình đã bơi khá xa bờ. Bỗng nhiên, tôi thấy bắp chân đau điếng và không thể điều khiển được nó theo ý mình nữa. Chuột rút! Tôi phải làm gì đây khi bốn bề xung quanh chỉ toàn là nước còn đám bạn thì ở khá xa? Trong khoảnh khắc ấy, tôi cảm thấy mình đang bị chính dòng nước hút xuống. Tôi cố ngoi lên mặt nước để kêu cứu nhưng càng vùng vẫy tôi lại càng chìm nhanh hơn và không thể thở được nữa. Tôi sợ hãi tột độ! Bỗng nhiên có một ai đó kịp thời đến bên tôi, nâng đầu tôi lên khỏi mặt nước và kéo tôi vào bờ. Thì ra một người làng đang đi câu cá gần đấy đã nghe tiếng tôi và đám bạn kêu cứu, nhanh chóng bơi ra và kéo tôi vào bờ. Thoát chết, tôi hối hận vô cùng vì đã không nghe lời mẹ! Chỉ vì quá chủ quan khi nước nông và ham vui mà suýt nữa thì mất mạng.

Trải nghiệm ấy đã đem đến cho tôi một bài học sâu sắc. Đó là cần vâng lời người lớn và chỉ nên bơi lội ở nơi an toàn, có sự giám sát của người lớn.
Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/ke-lai-mot-trai-nghiem-cua-ban-than-ve-duoi-nuoc-a124359.html

Đoạn trích “Bạch tuộc” là một trong những đoạn trích về khoa học viễn tưởng mà em thấy hay nhất trong bài 3. Đó là câu chuyện về một cuộc đụng độ, chạm trán không cân sức giữa một bên là một con bạch tuộc khổng lồ, đáng sợ và bên kia là con người nhỏ bé, yếu đuối. Nổi bật trên cuộc chiến đầy cam go đó phải kể đến nhân vật thuyền trưởng Nê-mô.

Đó là nhân vật em thấy thán phục và ngưỡng mộ nhất. Một thuyền trưởng đầy quyền lực của một tàu ngầm đặc biệt trong chuyến hành trình dưới biển. Tuy nhân vật này có phần ít nói, lạnh lùng với mọi người nhưng sự hiểu biết sâu rộng, tinh thần quả cảm của ông được thể hiện rõ qua những hành động, cử chỉ của mình.

Trong ấn tượng của em, thuyền trưởng Nê-mô là một người có tầm hiểu biết sâu rộng. Khi nhận thấy tình hình bất ổn do đụng độ phải một con bạch tuộc khổng lồ. Thuyền trưởng đã nhanh chóng thông báo với nhóm người giáo sư A-rô-nác và đưa ra cách giải quyết. Từ tình hình thực tế, dựa trên sự hiểu biết của mình về con vật, ông đã quyết định giáp chiến. Đó là một quyết định táo bạo, đúng đắn xuất phát từ những hiểu biết, kinh nghiệm lặn lội trên biển bấy lâu của Nê-mô.

Ngoài ra, thuyền trưởng Nê-mô còn được biết đến là một người dũng cảm, cam đảm và vị tha. Trong cuộc giao chiến với con quái vật biển, ông đã dũng cảm bảo vệ, giúp đỡ những người cùng đồng hành với mình, làm mọi cách để không ai bị chút tổn thương nào. Thế nhưng, có một người đồng hương của ông đã bị con bạch tuộc nuốt và chìm xuống đáy biển, nó khiến ông buồn và khóc. Điều đó chứng tỏ như bao người khác, ông cũng biết vui, buồn, biết thương xót, nuối tiếc. Một con người đa sầu đa cảm nhưng ít khi thể hiện ra bên ngoài.

Như vậy, không chỉ là một nhân vật đơn thuần, nhờ thuyền trưởng Nê-mô, em học được tinh thần quả cảm, quan sát, nhìn nhận và đưa ra giải quyết phù hợp để giải quyết khó khăn. Thay vì trốn tránh, hãy đương đầu với nó bằng tinh thần quả cảm và sự đoàn kết, giúp đỡ lần nhau. Đó là một bài học quý giá em học được và nó khiến em càng khâm phục nhân vật này hơn.

“Riêng mặt trời chỉ có một mà thôi. Và mẹ em chỉ có một trên đời”. Giai điệu của câu hát cất lên khiến lòng em không khỏi bồi hồi, xao xuyến nghĩ về người mẹ kính yêu của mình. Trong gia đình, người mà em yêu quý nhất đó chính là mẹ em, người giữ hơi ấm hạnh phúc, và tình yêu thương cho cả gia đình. Em yêu mẹ của em biết chừng nào!

Mẹ em năm nay đã ngoài ba mươi tuổi. Mẹ có một thân hình nhỏ nhưng cao ráo. Mẹ em có một khuôn mặt trái xoan vô cùng hiền lành và phúc hậu. Gương mặt mẹ em đã có nhiều chân chim, do thời gian và mưa nắng dãi dầu, cũng một phần là vì sự vất vả mưu sinh cho cuộc sống của gia đình em. Mái tóc mẹ em đen mượt và được để dài, lúc nào cũng được mẹ em búi hoặc buộc một cách vô cùng gọn gàng. Mái tóc mẹ em lúc nào cũng thoang thoảng mùi đinh hương, bồ kết. Do mẹ em là một người phụ nữ sống khá truyền thống nên mẹ không hay dùng các loại dầu gội đầu hiện đại. Bàn tay mẹ gầy gầy xương xương, nhưng chính đôi bàn tay lại ngày qua ngày, tháng qua tháng chăm sóc cho mấy chị em chúng em từng bữa ăn tới giấc ngủ. Em thích nhất là ngắm nhìn nụ cười của mẹ. Nụ cười tỏa rạng như ánh bình minh, nhìn mẹ cười mà lúc nào trong lòng em cũng cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

Mẹ em lúc nào cũng yêu thương và chăm sóc cho gia đình em rất chu đáo. Đôi bàn tay gầy gầy xương xương của em, sớm nào cũng chuẩn bị những bữa ăn giàu chất dinh dưỡng, đủ năng lượng cho một người làm việc và học tập của bố con em. Mẹ là người vun vén, chăm lo cho từng bữa ăn tới giấc ngủ, giữ gìn hạnh phúc cho mái ấm gia đình. Mẹ em tuy hiền nhưng cũng rất nghiêm khắc trong giáo dục con cái. Mẹ không bao giờ nuông chiều con cái quá mức mà luôn dạy, chỉ bảo cho em những bài học về cách cư xử, về đạo lý làm người. Mẹ còn là người luôn quan tâm đến việc học hành của chúng em chỉ dạy cho chúng em từng bài tập về nhà.

Mẹ là người mà em yêu quý và kính trọng nhất. Em hứa sẽ cố gắng chăm ngoan học giỏi để mẹ luôn vui vẻ không bao giờ phải phiền lòng, buồn bã vì con cái.

người cha là nhân vật chính trong bài thơ''Người cha mang com hộp''
có những nhân vật là người cha.....

Trong đoạn trích Bạch tuộc trích Hai vạn dặm dưới đáy biển của Vec-nơ em ấn tượng nhất là thuyền trưởng Nê-mô, một người vừa có vẻ đẹp của thể lực lẫn tinh thần.

Thuyền trưởng Nê-mô trong đoạn trích Bạch tuộc hiện lên là một người sẵn sàng chiến đấu với lũ bạch tuộc, nói cách khác, ông là một người quyết đoán, gan dạ. Ông đã sẵn sàng chiến đấu với những con bạch tuộc bằng rìu và đã đã chém đứt các vòi của chúng. Khi Nét Len bị một con bạch tuộc quật ngã, giáo sư A-rôn-nác đã lao tới cứu anh ta. Nhưng Nê-mô đã đến trước giáo sư. Lưỡi rìu của Nê-mô cắm phập vào mồm quái vật, và thế là Nét thoát chết trong gang tấc. Ở chi tiết này, có thê thấy sức mạnh cùng sự nhanh nhẹn của một thuyền trưởng. Phải có sức khỏe về thể chất, Nê-mô mới có thể sẵn sàng chiến đấu với lũ "quái vật" này và có những hành động vô cùng nhanh như vậy.

Nê-mô không chỉ là một người có vẻ đẹp về thể lực mà còn có cả vẻ đẹp về tinh thần. Vì sao ông phải chiến đấu với lũ bạch tuộc? Đó không chỉ còn là vì lũ bạch tuộc khiến con tàu No-ti-lớt không đi được mà còn vì những con người trên chiếc tàu ấy. Nếu không chiến đấu với lũ bạch tuộc, sẽ không có cơ hội nào để cứu người thủy thủ kia, không có cơ hội nào để cứu Nét Len. Việc Nê-mô chặt đứt vòi bạch tuộc hay rìu của ông cắm phập vào mồm quái vật vừa cho thấy sức mạnh thể chất của ông, nhưng cũng nói lên sự giận dữ của ông với lũ "quái vật" dám động vào những người trên tàu. Nói cách khác, đó là tình cảm giữa người với người, tình cảm của những người đã thân thiết dành cho nhau. Tôi nhớ nhất là chi tiết mắt Nê-mô ứa lệ khi nghĩ về "biển cả vừa nuốt mất một người đồng hương của mình". Tôi ấn tượng bởi đó là sự xúc động của một con người dành cho một con người, của người có quê hương dành cho đồng hương của mình, của một thuyền trưởng dành cho thuyền viên. Tôi còn ấn tượng bởi ông không khóc nức nở, không khóc thành tiếng hay một sự xúc động thái quá. Ở đây, Nê-mô chỉ "ứa nước mắt", những giọt nước mắt của ông cứ trào ra, ông không hề kêu lên hay cố tình thể hiện mà nó là cảm xúc chất chứa đến hồi bộc phát. Chi tiết này là một chi tiết đắt giá nói lên vẻ đẹp tinh thần của Nê-mô.

Nhân vật Nê-mô với sự gan dạ, quyết đoán và tình thương người đã để lại trong tôi sự cảm phục và ngưỡng mộ. Ông cũng cho tôi hiểu về sức mạnh của con người, sức mạnh của tinh thần đồng đội. Chính Nê-mô đã cho tôi biết cách cần phải rèn luyện bản thân cả về thể chất lẫn tinh thần.

   

mây,cây,trầu,thầy, cấy,....